THỰC HÀNH ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN TRONG VIỆC
LOAN BÁO TIN MỪNG
Mùa Chay và cao điểm là Tuần Thánh trước khi
cử hành lễ Vọng Phục Sinh là thời điểm mà người Công giáo có cơ hội nhìn lại
chính mình qua việc tham dự các nghi thức bình dân như đi đàng thánh giá, ngắm
đứng và nhiều nghi thức khác để tưởng nhớ việc Chúa Giêsu vào hoang địa chịu
cám dỗ, chịu chết và sau cùng phục sinh vinh hiển. Không những trong Mùa Chay
hay Mùa Phục Sinh, nhiều người Công giáo Việt Nam còn có những thực hành đạo đức
bình dân khác trong suốt năm để nuôi dưỡng và thăng tiến đời sống đạo của mình.
Lòng đạo đức bình dân là một khía cạnh quan trọng trong đời sống truyền giáo của Giáo Hội. Tuy nhiên, có một số người tự cho mình là học cao, hiểu rộng; có học vị cao nên xem thường lối thực hành đạo đức bình dân và họ còn cho rằng những người thực hành lối đạo đức bình dân ấy là những người ngu si, dốt nát và gây lãng phí thời gian. Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu về việc thực hành đạo đức bình dân là gì.
Theo Công Đồng Vaticanô II thì đời sống cầu nguyện của Giáo Hội tập
trung vào mọi cử hành Phụng Vụ, vì đó là “hành động của Đức Kitô linh mục và của
thân thể Người là Giáo Hội”, không một hình thức phụng tự nào khác có thể thay
thế được, “mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh và không một hành
vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp”.
Tuy nhiên các nghị phụ Công Đồng cũng công nhận rằng: “đời sống thiêng liêng
không chỉ giới hạn trong việc tham dự Phụng Vụ Thánh. Bởi vì người Kitô hữu được
mời gọi cầu nguyện chung, nhưng cũng phải vào phòng riêng âm thầm cầu nguyện
cùng Chúa Cha, hơn nữa phải cầu nguyện không ngừng như lời vị Sứ đồ đã dạy”. Những
hình thức cầu nguyện riêng tư đó được gọi là: lòng đạo đức bình dân.[1]
Lòng đạo đức bình dân không chỉ dành cho dân
dã thuộc giới bình dân, mà là một phương thức cầu nguyện dành cho hết mọi tín hữu,
bất kể họ là nhà bác học, nông dân, giáo hoàng hay người giáo dân bình thường. Đạo
đức bình dân là phương cách cầu nguyện để biểu lộ đức tin thông qua yếu tố văn
hóa của môi trường cụ thể. Nó có nhiều hình thức đa dạng và biến đổi, tùy theo suy tư thần học và hoàn cảnh chính trị, xã hội của từng thời đại. Lòng đạo đức bình dân không chỉ là một hình thức cầu nguyện, mà còn là một công cụ Chúa ban để giữ gìn đức tin và đáp ứng nhu cầu của đời sống thiêng liêng của người tín hữu. [2].
Tôi còn nhớ khi làm việc truyền giáo ở
Paraguay- Nam Mỹ, những người giáo dân nơi tôi phụ trách không biết nhiều về
giáo lý, về kinh nguyện mà chỉ thuộc có 3 kinh chính là Lạy Cha, Kính Mừng và
Sáng Danh. Còn bài hát chỉ thuộc có 1 bài là “Maria de Nazaret…”. Bởi thế, khi dâng thánh lễ thì tôi chỉ xướng và
đáp một mình vì họ đâu có thánh lễ thường xuyên vì thiếu linh mục. Tuy nhiên,
có một điều mà tôi quan sát là mỗi Chúa Nhật họ đến nhà nguyện để đọc Kinh Mân Côi,
và vào dịp lễ bổn mạng giáo họ thì họ làm tuần lễ cửu nhật (Novenario) và chỉ
biết đọc kinh Mân Côi và hát bài “Maria
de Nazaret…” cùng với kinh về thánh quan thầy của giáo họ mình. Chính việc
cử hành đơn sơ ấy đã nuôi dưỡng đời sống đức tin của họ và giúp họ sống đạo tốt
hơn dù họ chẳng được học hành hay có địa vị nào trong xã hội.
Tôi cũng nhớ lại thời thơ ấu trong gia đình của
tôi, người mẹ kính yêu của tôi là một tân tòng nhưng đêm nào cũng gọi con cái đọc
kinh mân côi và nhiều kinh khác dài lê thê trước khi đi ngủ vì thời đó là thập
niên 80s, không có nhiều phương tiện như tivi, internet, điện thoại như hiện
nay. Cũng thời gian đó, các giáo xứ cũng không được tự do tổ chức các sinh hoạt
như hiện nay vì không được tụ tập đông người, nên việc thực hành lòng đạo đức
bình dân vào các dịp Mùa Chay, tháng Mân Côi hay Lễ Giáng Sinh qua việc gẫm
đàng thánh giá, hoạt cảnh giáng sinh, lần chuỗi Mân Côi… là cách để sống đạo
trong thời điểm ấy.
Những ngày tháng sống tại Philippines, tôi
cũng quan sát thấy người dân xứ này dù nhà thờ nhiều, linh mục đông, họ vẫn
không quên thực hành lòng đạo đức bình dân của mình khi cùng nhau đi đàng thánh
giá, rước kiệu các thánh bổn mạng của giáo họ hay giáo xứ mình, lần chuỗi Mân
Côi và hát du dương những bài thánh ca quen thuộc bằng chính ngôn ngữ mẹ đẻ của
mình, và đó chính là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống tâm linh của họ.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tông thư Vicesimus Quintus Annus ban hành ngày
4/12/1988 trong dịp kỷ niệm 25 năm công bố Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium đã viết: “Lòng đạo đức bình dân này không
thể bị quên lãng hoặc bị đối xử dửng dưng hoặc khinh chê, bởi vì lòng đạo đức
này có nhiều giá trị và lâu nay tự chính mình, lòng đạo đức này diễn tả nền
tảng tôn giáo của con người đối với Thiên Chúa. Nhưng nó không ngừng cần được
Tin Mừng hóa ngõ hầu đức tin gợi hứng cho lòng đạo đức này, được diễn tả bởi một
hành vi luôn có suy nghĩ hơn và chân thực hơn. Những việc đạo đức của dân Kitô
giáo, cũng như những hình thức sùng mộ khác, đều được đón nhận và
khuyến khích, miễn là chúng không thay thế và không lẫn lộn với những cử hành
phụng vụ. Mục vụ phụng vụ chân thực biết dựa trên sự phong phú của lòng đạo đức
bình dân, thanh luyện chúng và hướng chúng về phụng vụ như là hiến vật của toàn
dân.”[3]
Tuy nhiên, điều gì cũng có mặt trái của nó nếu
người thực hành nó không đủ tỉnh táo để phân định việc mình đang làm.
Hẳn nhiên là lòng đạo đức bình dân có giới hạn của nó. Lòng đạo
đức bình dân thường bị xâm phập bởi những méo mó về tôn giáo và mê tín dị đoan
nữa. Thường nó dừng lại ở mức độ của hình thái phụng tự không phải do lòng tin.
Nó cũng có thể đưa đến chỗ phát sinh những giáo phái và làm nguy hại cho cộng
đoàn Giáo Hội đích thực.
Một trong những điều mà tôi muốn nêu ra đây như là một lần nhắc
nhở cho chính bản thân mình là một nhà truyền giáo đầy cảm tính và nhạy cảm
trước những lối thực hành lòng đạo đức bình dân thái quá mà nếu mình không đủ
tỉnh táo thì dễ mắc bẫy.
Người theo đạo Công giáo có số phần trăm khá cao ở Nam Mỹ, nhưng
họ ít thực hành lối sống đạo của mình. Tuy nhiên, có một số phong trào phát
triển khá mạnh ở đó nhằm thu hút tầng lớp trung lưu và những gia đình giàu có
tham gia. Đó là các phong trào như Thánh Linh Đặc Sủng (Los Carismáticos), Los
Cursillistas, Con Đường Tân Dự Tòng (Neo-Catecumenados), Los Convivistas,
Movement Alpha… Nhiều người trong các phong trào này rất ít tham dự thánh lễ và
các sinh hoạt trong các giáo xứ của mình vì nhiều lý do. Tuy nhiên, họ tham dự
các đoàn thể và phong trào này rất tích cực và hăng say, một mặt là để kiếm tìm
đối tác trong công việc của họ. Mặt khác, họ muốn nói cho những người khác rằng
họ cũng tham dự đầy đủ các sinh hoạt công giáo và luôn làm tròn bổn phận của
một người công giáo. Phần lớn trong số họ là những người có quyền lực, địa vị
và tiền bạc nên lời nói của họ rất có trọng lượng, và đôi khi, có thể làm cho
các linh mục bị lép vế và nghe theo lời sai khiến của họ.
Ở Việt Nam, giáo dân rất vâng lời đấng bản quyền và các cha xứ của
mình nên việc thực hành lòng đạo đức bình dân nếu được hướng dẫn đúng hướng sẽ
là một môi trường tốt cho việc phát triển giáo xứ và hơn nữa, có thể giới thiệu
Chúa cho những người khác sống bên cạnh mình.
Tôi có nghe nhiều người Việt Nam ở ngoại quốc nói rằng, sống ở
Việt Nam tuy nghèo, nhưng khi đau bệnh và tang chế thì hạnh phúc vì hàng xóm
láng giềng đến giúp đỡ cho nhà hiếu và đọc kinh sớm tối khiến cho bầu khí ấm
cúng và là một niềm an ủi lớn cho gia đình có người thân qua đời. Chính việc
thực hành lòng đạo đức bình dân qua việc đọc kinh cầu nguyện và sự liên đới
trong những lúc khó khăn, tang chế đã để lại những ấn tượng tốt đẹp cho những
người khác tôn giáo hơn ngàn lời nói của các vị thuyết giảng lừng danh nhưng
rồi sau đó chẳng để lại được gì trong lòng người nghe.
Vì
lòng đạo đức bình dân được nẩy sinh nhằm đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng của
người tín hữu trong những nền văn hóa khác nhau, nên lòng đạo đức bình dân mang
nhiều sắc thái đa dạng thay đổi theo thời gian và tùy theo nền văn hóa. Khi nói
về sự đa dạng trong việc sùng kính Đức Maria, Đức Phaolô VI đã giải thích rằng:
Giáo hội “không tự trói mình với bất cứ một sự diễn tả riêng tư nào của
một thời kỳ văn hóa cá thể hay là với những ý niệm nhân loại học riêng biệt làm
nền tảng cho những sự diễn tả ấy. Giáo Hội hiểu rằng một sự diễn tả tôn giáo
bên ngoài, tuy tự nó là hoàn toàn đúng, nhưng có thể ít thích hợp hơn cho những
người nam và người nữ của những thời đại và của những nền văn hóa khác nhau.”[4]
Lễ
Lòng Chúa Thương Xót vào Chúa Nhật thứ II Phục sinh, ngày lễ
do Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập với lời khẩn cầu của thánh nữ Maria Faustina- người nữ tu được
nhìn thấy Chúa Giêsu trong một thị kiến với sứ điệp là phổ biến rộng rãi việc
tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót, cũng
là dịp để chúng ta nói về việc thực hành đạo đức bình dân trong việc loan báo
Tin Mừng vì chính những giáo dân và các vị mục tử đạo đức đã không ngừng truyền
cảm hứng cho người khác qua lòng từ bi nhân hậu của Chúa.
Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa đã có từ lâu nên việc mừng lễ Lòng Chúa Thương Xót như một sự thêm vào khiến việc thực hành đạo đức bình dân lên cao hơn nữa. Nhiều gia đình, hội đoàn và phong trào lấy tên Lòng Chúa Thương Xót để cổ võ tình thương và tha thứ của Chúa khi con người phạm tội nhưng biết quay đầu xin Chúa thứ tha. Đức Thánh Cha Phanxico khi mở năm Thánh về Lòng Chúa Thương xót vào năm 2015, ngài nhắc lại lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao II: “chỉ khi nào con người cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại thì con người mới có thể "nhìn vào anh chị em của mình với đôi mắt mới, với thái độ vị tha và liên đới, đại lượng và tha thứ."[5]
Các
việc thực hành đạo đức bình dân như lần Chuỗi Mân côi, chuỗi Lòng Chúa Thương
Xót, đi Đàng Thánh Giá, ngắm Thương Khó, rước kiệu, đi hành hương, làm tuần cửu
nhật, kinh nguyện gia đình, cầu lễ cho người qua đời, dâng hoa kính Đức Mẹ… dù
không thuộc phụng vụ, nhưng vẫn hài hòa với phụng vụ, lấy cảm hứng từ phụng vụ,
và dẫn đưa dân Chúa đến phụng vụ. Các thực hành này được hướng dẫn của Tòa
Thánh hoặc của các đấng bản quyền, nên luôn phù hợp với Lời Chúa và những
truyền thống phụng tự của Hội Thánh địa phương, của các dòng tu và được thường
quyền cho phép thực hành.
Như vậy, có thể nói lòng đạo đức bình dân cần
thiết và phù hợp với khuynh hướng của con người. Con người phải làm một
điều gì đó chứ không thể cứ ngồi một chỗ mà không làm gì cả. Thiên Chúa đã sáng
tạo con người và muốn con người có sự sáng tạo, phải làm điều gì đó. Người tạo
dựng con người có hồn, có xác để hành động và rồi đặt con người vào một thế
giới đầy những việc phải làm. Trong suốt lịch sử, Người đã biết khuynh hướng tự
nhiên này và cho con người những việc phải làm. Khi dân khát, Thiên Chúa bảo ông
Môisê đập vào tảng đá để nước chảy ra. Tại sao Người làm điều đó? Không phải vì
Người cần làm. Người có thể cho mưa từ trời xuống hoặc tạo một hồ nước lớn giữa
sa mạc hay ngay cả sai thiên thần phục vụ nước giải khát “Coca Cola hay Sprite”
cho dân. Tuy nhiên, Người biết bản tính nhân loại và biết con người cần phải là
một điều gì đó. Thế là Người ra lệnh cho Môise đập cây gậy vào tảng đá để nước
chảy ra (xc. Ds 20, 1-13).
Như đã nói, lòng đạo đức bình dân không phải
là phụng vụ nhưng hài hòa với phụng vụ. Cùng với phụng vụ, lòng đạo
đức bình dân đem đức tin “đi ra” khỏi bốn bức tường của nhà thờ để hòa mình vào
trong cuộc sống. Việc thực hành lòng đạo đức bình dân có đặc tính công cộng và
xã hội. Chúng là sự nhắc nhở thường xuyên về chiều kích xã hội của Tin Mừng.
Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta tự bản tính là những hữu thể xã hội. Chúng ta
luôn sống trong mối tương giao với người khác và có trách nhiệm hành động vì lợi
ích chung cho xã hội. “Phụng vụ hay lòng đạo đức bình dân? Các hình thức diễn tả
tôn giáo này đã hội nhập vào thế giới của đức tin. Lòng đạo đức bình dân có tầm
quan trọng như chiếc cầu nối giữa đức tin và mỗi nền văn hóa. Tự bản tính, nó mắc
nợ nền văn hóa đó. Nó mở rộng thế giới của đức tin và đem lại sự sống động
trong những hoàn cảnh sống khác nhau.”[6]
Tại Châu Mỹ Latinh, lòng đạo
đức bình dân được các giám mục gọi là “linh đạo bình dân”, “khoa thần bí của
dân chúng”, là “một linh đạo nhập thể trong văn hóa của những người thấp hèn”,
nó khám phá và diễn tả nội dung đức tin bằng biểu tượng hơn bằng lý luận ngôn từ.
Trong hành vi đức tin, nó nhấn mạnh vào credere in Deum (tin
vào Thiên Chúa) hơn là credere Deum (tin Thiên Chúa)[7].
“Nó là một cách sống đức tin hợp lệ, một cách cảm nhận mình là thành phần của Hội
Thánh và biểu lộ tư cách người truyền giáo …. Tham gia vào các cuộc biểu dương
lòng đạo bình dân … việc ấy tự nó là một cử chỉ loan báo Tin Mừng. Chúng ta đừng
bóp nghẹt hay tìm cách kiểm soát sức mạnh truyền giáo này!”[8]
Từ khi Đức Giáo Hoàng
Phanxicô bước ra ngoài hành lang của Đền thờ Thánh Phêrô, các phương tiện truyền
thông và công chúng xôn xao tìm hiểu về con người đến từ đất nước thuộc Châu Mỹ
Latinh này. Người ta bắt đầu tò mò tìm hiểu và một trong những điều khám phá
khá thú vị là Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất sùng kính Đức Bà Mở Nút Thắt (Our
Lady Undoer of Knots) từ khi còn là một linh mục sinh viên thần học tại Đức Quốc.
Chắc hẳn lòng sùng mộ bình dân này đã đi theo và lớn dần lên trong ngài cùng với
năm tháng. Chính vì thế mà ngay trong Tông huấn đầu tiên của triều đại giáo
hoàng, một văn kiện chữ nghĩa, thế mà ngài đã nhắc đến những cử chỉ dường như
vô nghĩa, nhỏ nhặt nhất của lòng đạo đức bình dân: một bà mẹ chăm con bệnh tật
đang lần chuỗi mân côi dù chỉ biết sơ sài những điểm của kinh Tin Kính, một cây
nến đốt lên trong nhà để cầu xin ơn trợ giúp của Đức Mẹ, cái nhìn trìu mến hướng
lên tượng Chúa Kitô chịu nạn, và không xem đây là những cử chỉ thuần túy phàm
trần mà là do Chúa Thánh Thần tác động và có sức mạnh truyền bá Tin Mừng.[9] “Lòng
đạo đức bình dân một cách nền tảng được hội nhập văn hóa, không thể là một lòng
đạo đức được làm trong phòng thí nghiệm, nhưng luôn luôn nảy sinh từ cuộc sống.
Người ta có thể phạm các lỗi nhỏ, vì thế cần phải tỉnh thức, nhưng lòng đạo đức
bình dân là một dụng cụ rao truyền Tin Mừng.[10] Và
không chỉ có thế, lòng đạo đức bình dân còn là một “nơi cư ngụ của các luận chứng
thần học” hay nói một cách đơn giản là những cội nguồn của thần học. “Các biểu
hiện của lòng đạo đức bình dân dạy chúng ta nhiều điều; với những ai có khả
năng đọc được những biểu hiện này, chúng là một locus theologicus (cơ
sở thần học) mà chúng ta phải chú ý, đặc biệt ở thời điểm chúng ta đang hướng về
cuộc Tân Phúc Âm hóa.”[11]
Vậy
làm thế nào để phát triển lòng đạo đức bình dân theo đúng đường hướng của giáo
hội trong việc loan báo Tin Mừng?
Như
đã đề cập trên đây, mọi thứ đều có hai mặt của nó. Việc thực hành lòng đào đức
bình dân cũng vậy, nếu
không được hướng dẫn và “điều hướng tốt”, có thể đưa đến sự mê tín, phàm tục
hóa (làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng và thương mại hóa khi các đoàn thể, phong
trào làm tuần cửu nhật, xin cầu nguyện để gây quỹ, kiến tiền riêng cho nhóm
mình).
Trong lịch sử Giáo Hội đã từng có những lòng
đạo đức dẫn đến sự thiếu quân bình trong đời sống thiêng liêng. Thực hiện lòng
đạo đức lại không đạo đức trong ý hướng hay có những sai lầm. Tài liệu Hướng
dẫn về lòng đạo đức bình dân và phụng vụ, số 64, trình bày những nguy cơ có
thể ảnh hưởng đến lòng đạo đức bình dân như là thiếu ý thức thuộc về Giáo Hội;
thiếu hiểu biết về Kinh Thánh; tự tách biệt khỏi giáo xứ, giáo hội địa phương;
thờ ơ với các bổn phận của đời sống Kitô giáo; luôn tìm lợi ích riêng cho hội
đoàn mình; sử dụng các cửa chỉ, dấu hiệu và công thức thái quá chưa được phép
của đấng bản quyền hay mang tính diễn kịch; và nhất là cổ võ cho các giáo phái,
mê tín dị đoan rồi cuối cùng tự tách mình ra khỏi giáo hội.
Để tránh tình trạng này, vài mục tử đã loại
bỏ lòng đạo đức bình dân ra và trình bày phụng vụ như là hình thức biểu hiện
đầy đủ lòng đạo đức. Làm như thế là không cần biết đến lòng đạo đức bình dân
xuất phát tự nhiên từ các tín hữu như là biểu hiện chính đáng của sự thờ phượng
hài hòa với phụng vụ.
Tuy nhiên, như đã nói, các vị mục tử và những
người đồng hành với các nhóm, hội đoàn và phong trào trong việc thực hành lòng
đạo đức bình dân cần phải nắm rõ các nguyên tắc và những hướng dẫn của giáo hội
về thực hành lòng đạo đức bình dân để hướng dẫn họ đi đúng hướng, và khi những
người thực hành lòng đạo đức bình dân không đi lệch ra ngoài đường hướng của
giáo hội thì đời sống và các sinh hoạt của giáo xứ trở nên thăng hoa.
Để thực hành lòng đạo đức bình dân trong việc
loan báo Tin Mừng ngày nay tại Việt Nam, nhất là những xứ đạo vùng nông thôn,
nên cổ võ việc lần chuỗi mân côi vào tháng Hoa và tháng Mân Côi giữa các gia
đình gần nhau và nếu có thể được, mời những người không cùng tôn giáo tham gia
vì hầu như ai cũng yêu mến Đức Mẹ. Những ngày ma chay, giỗ chạp nên cùng tham
gia với những người không cùng tôn giáo để khi xảy đến với gia đình mình, họ
cũng sẽ tham gia. Những dịp lễ bổn mạng giáo họ, giáo xứ và các dịp lễ lớn cũng
nên mời những bạn bè khác tôn giáo với mình tham dự các cuộc rước kiệu, hát
thánh ca và giải thích cho họ về những hoạt động ấy để họ hiểu thêm về người
công giáo và dần sẽ có nhìn thiện cảm với người công giáo qua việc thực hành
lòng đạo đức bình dân.
Đại dịch Covid-19 vô tình đã giúp cho việc
thực hành lòng đạo đức bình dân có chỗ đứng vững chãi hơn khi nhiều nhóm có
sáng kiến về học hỏi Kinh Thánh, lần chuỗi Mân Côi sống qua trực tuyến online
vì từ nông thôn đến thành phố hiện nay đều dùng điện thoại thông minh với
Internet tốc độ cao ở khắp nơi. Người ta cũng hẹn nhau lúc 3 giờ chiều để đọc
kinh Lòng Chúa Thương Xót chung trên mạng trực tuyến rất sốt sắng. Các các buổi
thuyết trình, học hỏi, hội thảo trực tuyến về các đề tài chuyên biệt qua Zoom, Google
Meet… và từ đó lan truyền khắp hang cùng, ngõ hẻm không những cho người công
giáo mà ngay cả những người không công giáo cũng hiểu biết được. Với thời buổi
công nghệ hiện nay thì ai có thể cấm cản được nên điều quan trọng là những
người đồng hành với những ‘giáo dân vô hình’ hay những ‘giáo dân không biên
giới’ này giúp họ hiểu mình đang làm gì trong việc sống đạo, nhất là việc thực
hiện lòng đạo đức bình dân trong việc loan báo Tin Mừng.
Nhớ rằng lòng đạo đức bình
dân không chỉ là hình thức cầu nguyện, mà còn là cách biểu lộ đức tin thông qua
yếu tố văn hoá của môi trường cụ thể, để từ đó có thể loan báo Tin Mừng cho
những người chúng ta gặp gỡ hàng ngày.
Philippines, Mùa Phục Sinh
2024
Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD
[1]Đức Phaolo VI, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium (4/12/1963), các số 7 và 12.
[2]Lm Hà Văn Minh, “LÒNG ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN”,
bài thuyết trình tại Tọa Đàm “SỐNG ĐẠO THEO CUNG CÁCH VIỆT NAM” do Ủy
Ban Giám Mục về Giáo Dân phối hợp với Tòa Tổng Giám Mục Huế tổ chức
tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Huế trong ba ngày 20-23/4/2004.
[3] Đức Gioan Phaolo II,
Vicesimus Quintus Annus, số 18.
[4]Đức Phaolo VI, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium (4/12/1963),
[5]Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bài Giảng Chúa Nhật II Phục Sinh, Lễ kính
lòng thương xót, 23-4-1995, Roma.
[6]Joseph Cardinal Ratzinger, The Spirit of Liturgy,
Ignatius Press, 2000, tr. 199
[7]“credere in Deum" là đức tin sống động qua việc làm và tình yêu. "Credere
Deum" chỉ nội dung của đức tin, là những điều chúng ta tin. Chẳng hạn,
người Công giáo tin điều Giáo Hội dạy về Thánh Lễ nhưng không bao giờ đi lễ,
người ấy là “credere Deum” chứ không phải là “credere in
Deum”.
[8]Đức Phanxico, Niềm vui của Tin Mừng
– Evangelii Gaudium, số 124, tr. 105
[9]Đức Phanxico, Niềm vui của Tin Mừng
– Evangelii Gaudium, số 125, tr. 106
[10]Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô tại giáo phận
Caserta nam Italia, Chúa Nhật ngày 27 tháng Bảy
[11]Đức Phanxico, Niềm vui của Tin Mừng
– Evangelii Gaudium, số 125, tr. 106
No comments:
Post a Comment