CHÚT SUY TƯ NHÂN NGÀY THẾ GIỚI DI DÂN VÀ TỊ NẠN
Trong Bối Cảnh Truyền Giáo tại Việt
Nam
Hàng năm, Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn được cử hành vào Chủ nhật cuối cùng của tháng 9 kể từ năm 1914. Năm nay, Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn sẽ được tổ chức vào ngày Chúa Nhật 24/9. Như tiêu đề cho sứ điệp thường niên của mình, Đức Thánh Cha Phanxico đã trình bày: “Tự do lựa chọn giữa việc ra đi hoặc ở lại”. Đức Thánh Cha đã viết: “Quyết định di cư phải luôn được tự do, nhưng trong nhiều trường hợp, ngay cả trong thời đại của chúng ta, điều đó không phải vậy. Xung đột, thiên tai hay đơn giản hơn là việc không thể sống một cuộc sống xứng đáng và thịnh vượng ở quê hương đang buộc hàng triệu người phải rời bỏ quê hương”.
Khi
còn làm việc truyền giáo ở Malaysia, Châu Mỹ Latinh và Châu Âu, tôi được may mắn
làm việc với những người di dân đến từ khắp nơi trên thế giới. Họ đến vùng đất
mới với nhiều lý do: đoàn tụ gia đình, tị nạn chính trị, tìm kế sinh nhai, bị
phân biệt chủng tộc, tôn giáo, chiến tranh, ý thức hệ, xung đột vũ trang, thảm
họa thiên nhiên, đói kém, ô nhiễm
môi trường sống, v.v.… Khi làm việc và tâm sự với họ tôi cũng nhận ra rằng
một cách nào đó bản thân mình cũng là người di cư, một người di cư truyền giáo.
Thành
thực mà nói khi bản thân làm việc với người di dân quốc tế nói tiếng Việt hay
tiếng Anh tại Malaysia; tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và ngôn ngữ khác ở châu
Âu, tôi cảm thấy có điều gì đó gần gũi và thân quen dù họ và tôi khác màu da,
khác chủng tộc, khác văn hóa… nhưng chúng tôi có chung một tấm lòng nên rất hiểu
nhau. Thánh Giuse Freidemetz, linh mục truyền giáo Dòng Ngôi Lời tại Trung quốc
đã từng nói: “Ngôn ngữ mà ai cũng hiểu đó là ngôn ngữ tình yêu”. Tôi đã yêu mến
họ và chắc chắn rằng họ cũng yêu mến tôi vì điều duy nhất tôi cho họ đó là tình
thương.
Một số người bạn của
tôi đang làm việc cho những người di dân ở các nước tâm sự rằng làm việc cho
người di dân và tị nạn làm cho mình không còn cảm giác nhớ nhà nữa vì họ chính
là những người thân của mình. Nếu mình sống chết với họ, họ sẽ không bao giờ bỏ
rơi mình. Và thực sự như thế vì nhà truyền giáo chỉ có một thân, một mình nơi đất
khách (dù có cộng đoàn) nhưng nhiều lúc cảm thấy cô đơn, hụt hẫng. Chính những
lúc đó những người cùng cảnh ngộ là những người đã bỏ xứ ra đi sẵn sàng đến với
mình với tất cả tấm lòng.
Những
năm tháng mục vụ cho người di dân và tị nạn nơi đất khách, tôi được nghe những
câu chuyện thương tâm của những bậc tiền bối đồng hương mà giờ đã bước vào U80.
Họ tâm sự với tôi rằng những ngày tháng lênh đênh trên biển cả để tìm bến bờ tự
do sau biến cố 1975 đã để lại trong họ những vết thương lòng không bao giờ
phai, đó là lúc đắm thuyền, là những lúc bị hải tặc, những lúc phải nhìn những
người thân ra đi mà không thể làm gì được… và cũng đã chứng kiến cảnh phải ăn
thịt đồng loại để sinh tồn. Đó là nỗi đau không bao giờ hết, và nếu phải di tản
một lần nữa chắc họ sẽ chấp nhận chết tại quê nhà để còn được ma chay, phúng viếng.
Nghe những lời tâm sự của họ mà lòng mình nhói đau, và chính lúc đó là lúc một
linh mục truyền giáo sẵn sàng mở đôi tai để lắng nghe và mở rộng đôi tay để ôm
lấy người đang tuyệt vọng. Bởi thế, tôi thiết nghĩ, truyền giáo không cần phải
nói nhiều hay cho điều gì ngoài việc biết lắng nghe và cho đi tình thương.
Dòng
Truyền giáo Ngôi Lời chúng tôi đã coi việc chăm sóc những người Di cư và Tị nạn
như một ưu tiên mục vụ truyền giáo và được nhắc đến trong các Tổng Tu nghị của
Dòng. Ở một số quốc gia, các nhà truyền giáo Ngôi Lời và các cộng tác viên giáo
dân Ngôi Lời đang giúp đỡ những người đã rời bỏ đất nước của họ theo những cách
khác nhau: chăm sóc mục vụ, đồng hành tâm lý, xin giấy tờ pháp lý, dạy ngôn ngữ
địa phương, cung cấp chỗ ở, thức ăn và quần áo tạm thời. Mục đích chính của việc
phục vụ này của anh em Dòng truyền giáo Ngôi Lời dành cho người di dân và người
tị nạn là giúp đỡ họ trong quá trình hội nhập với đất nước mới mà hiện giờ họ
xem là quê hương thứ hai của họ.
Theo
thống kê từ Tổ chức Di cư quốc tế (International Organization for Migration - IOM), số lượng người di cư quốc tế đã tăng mạnh
trong khoảng 5 thập kỷ qua. Đây là hiện tượng phổ biến, mang tính lịch sử diễn
ra trong suốt quá trình phát triển của nhân loại với các yếu tố tác động đến từ
quá trình tương tác chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, các vấn đề
mang tính toàn cầu sẽ có những tác động không nhỏ đến tình trạng di dân giữa
các quốc gia trên thế giới.
Di cư quốc tế hiện nay đã trở thành vấn đề đáng quan tâm của
cộng đồng thế giới, nhất là đối với các quốc gia có lượng người xuất cư và nhập
cư cao. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thống kê số lượng người di cư quốc
tế, từ năm 2000, Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) đã đưa ra các báo
cáo về di cư nhằm góp phần nâng cao hiểu biết về tình trạng di cư trên toàn thế
giới. Theo đó, Báo cáo di cư quốc tế 2022 cho biết, năm 2020, thế giới có khoảng
281 triệu người di cư quốc tế, chiếm khoảng 3,6% dân số toàn cầu. Con số này
nhiều hơn 128 triệu người so với năm 1990 và gấp 3 lần con số thống kê của năm
1970.
Sự gia tăng người di cư quốc tế đã thể hiện rõ ràng theo thời gian, cả về số lượng và tỷ lệ với tốc độ nhanh hơn so với dự đoán trước đây. Châu Âu và châu Á là 2 khu vực được cộng đồng người di cư quan tâm nhiều nhất, mỗi khu vực tiếp nhận lần lượt khoảng 87 và 86 triệu người di cư quốc tế, chiếm khoảng 61% tổng lượng người di cư toàn cầu. Đứng thứ 3 là khu vực Bắc Mỹ với 58,7 triệu người di cư quốc tế, chiếm 21% tổng lượng di cư toàn cầu, châu Phi là 25,4 triệu người, chiếm 9%, châu Mỹ Latinh và Caribe 14,8 triệu người, chiếm 5%, còn lại là châu Đại Dương với 9,38 triệu người, chiếm 3%.(https://worldmigrationreport.iom.int/wmr-2022-interactive/)
Cuộc xung đột vũ trang hai năm vừa qua lại tiếp
tục chứng kiến số lượng người di dân bất đắc
dĩ khiến cho nền kinh tế thế giới đã thê thảm do đại dịch Covid-19, nay lại
càng tuột dốc hơn và người ta lo sợ rằng, một khi đã không còn gì để mất, thế
giới chúng ta sẽ trở nên hoang tàn!
Tại Việt Nam, sau khi
chia đôi đất nước vào năm 1954, miền Nam đã đón nhận hơn 2 triệu người di cư từ
miền Bắc. Chính những người được xem là di cư và tị nạn từ miền Bắc đã làm
phong phú hóa miền Nam khi nhiều làng quê Công giáo cùng với các vị mục tử của
mình lập nên những địa danh mới lấy tên của nơi mình đã ra đi và tiếp tục phát
triển. Biến cố 1975 được xem là cuộc đại di cư của hàng triệu người Việt ra
nước ngoài trên hành trình vượt biên đầy sóng gió, và từ đó người Việt đi tị
nạn dưới hình thức này gọi là thuyền nhân (Boatpeople). Ngoài ra, tình hình
kinh tế của Việt Nam gặp nhiều khó khăn sau 1975 dẫn đến việc xuất khẩu lao
động trong thập niên 1980-1990 sang Liên Xô và Đông Âu (CHDC Đức, Tiệp, và
Bungari), và từ năm 1995 đến nay, sang các quốc gia trong khu vực châu Á như
Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mã Lai, v.v..
Đó là chưa kể hàng triệu người từ các tỉnh
miền Trung và miền Bắc vào miền Nam làm việc ở các khu công nghiệp Bình Dương,
Đồng Nai, Sài Gòn do chính sách kinh tế thị trường sau thời kỳ Đổi Mới.
Sự gia tăng theo cấp số nhân của những người di trong vòng 30 năm qua ở trong
và ngoài nước mang lại nhiều thách đố trong việc phát triển kinh tế xã hội –
trong đó có đời sống tâm linh, tôn giáo của những người nhập cư và tạm cư này.(
http://giaophanthanhhoa.net/di-dan/uu-tu-va-thao-thuc-muc-vu-cho-cac-gia-dinh-tre-di-dan-38810.html).
Trong sách Lêvi 19,34 có viết rằng: “Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi từng là ngoại kiều tại đất Ai Cập. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”. Thiên Chúa qua miệng các ngôn sứ nhấn mạnh rằng người ngoại kiều di cư phải được tôn trọng và có các quyền như người dân bản địa. Bằng cách cấm mọi hình thức phân biệt đối xử hoặc thành kiến dựa trên nơi xuất xứ, bản văn thách thức chúng ta vượt qua những thành kiến của mình và dang tay chào đón những người đang cần giúp đỡ. Khi làm như vậy, ta nhận ra một sự thật cơ bản: mỗi người đều mang dấu ấn của Đấng Tạo Hóa và, theo nghĩa sâu nhất, giống như chính Chúa Kitô. Lời dạy từ đoạn Kinh Thánh trên đây là lời nhắc nhở chúng ta luôn mãi về tính nhân văn được sẻ chia và tia sáng thần linh ẩn chứa trong mỗi cá nhân, bất kể nguồn gốc của họ. Lời ấy mời gọi chúng ta phải biết đối xử với những người di dân không phải là những người xa lạ đáng sợ mà là những người bạn đồng hành trên hành trình cuộc sống. Nơi khuôn mặt của họ, chúng ta được mời gọi nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô, nhắc nhở chúng ta về điều răn cao trọng nhất là yêu thương người lân cận như chính mình.
Hưởng ứng lời mời gọi của
Đức Thánh Cha và Giáo hội hoàn vũ, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong 27 Giáo Phận
cùng thao thức và đang cố gắng đề ra các đường hướng mục vụ vừa đa dạng vừa
linh hoạt cho người di dân: như trợ giúp các nhu cầu cấp thiết cho người di dân
qua các chương trình mục vụ; các hoạt động mục vụ hướng đến việc phát triển,
thăng tiến bền vững cho người di dân; các hoạt động tông đồ quy tụ và hiệp nhất
các người di dân trong đức tin,... nhằm tạo điều kiện để người di dân được tham
gia và đóng góp các tiềm năng, tài năng, lòng nhiệt thành và đời sống đạo đức
mà những người di dân có thể cống hiến cho các cộng đoàn tiếp đón họ. Nói cách
lạc quan, sự hiện diện của các anh chị em di dân đã tạo nên sự phong phú và
năng động mới cho các cộng đoàn nơi họ sinh hoạt.
Tuy nhiên, bên cạnh khía
cạnh tích cực mà các anh chị em di dân đã sống, hòa nhập và dấn thân cho giá trị
của Tin Mừng, chúng ta cũng thấy họ phải đối diện với biết bao những thách thức,
khó khăn trong đời sống Kitô hữu như: sự hòa nhập với môi trường sống mới, vấn
đề văn hóa, phong tục, luân lý, các thực hành đức tin,... Bởi đó, chúng ta tự vấn
làm sao để có thể giúp anh chị em di dân của chúng ta nói chung và cách riêng
biệt là các gia đình trẻ di dân sớm hội nhập và thăng tiến đời sống của họ theo
giá trị của Tin Mừng.
Thật khó mà lường trước
được điều gì sẽ xảy ra khi mà một số di dân trẻ đang đánh mất chính mình khi
lao vào các tệ nạn xã hội. Một số gia đình trẻ cũng chỉ vì cơm áo gạo tiền mà một
trong hai người trụ cột phải bỏ lại gia đình để đến một nơi khác tìm kế sinh
nhai với biết bao cạm bẫy. Chính vì thế mà các vị lãnh đạo trong giáo hội cũng
như chính quyền đang tìm cách tốt nhất để đồng hành và tạo mọi điều kiện cho những
người di dân. Ủy Ban LBTM trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vừa qua có cuộc
họp giữa các thành viên cũng đưa ra những thao thức truyền giáo, trong đó có việc
mục vụ thăm viếng và mục vụ di dân như là phương thế truyền giáo trong năm củng
cố sự hiệp thông để tiến tới một Hội Thánh Hiệp Hành.
Quyết
định di cư là một quyết định phức tạp và mang tính cá nhân sâu sắc, thường bị
thúc đẩy bởi những khó khăn và bất ổn trong cuộc sống. Tuy nhiên, trách nhiệm về
cách chúng ta tiếp nhận và đối xử với những người di cư và tị nạn thuộc về cư
dân của những vùng đất nơi họ tìm nơi ẩn náu. Những lời Kinh Thánh là lời kêu gọi
vang dội đến toàn thể nhân loại, nhắc nhở chúng ta về mệnh lệnh luân lý là phải
đối xử với những người đến giữa chúng ta bằng lòng nhân ái, nhân phẩm và công bằng.
No comments:
Post a Comment