Sunday, July 27, 2025

 

Hiểu Rõ Sứ Vụ Truyền Giáo Trong Việc Loan Báo Tin Mừng

Là một Kitô hữu, không ít lần chúng ta được nghe nhắc đến từ thừa sai hay truyền giáo trong cuộc đời. Giáo Hội Công giáo Việt Nam cũng đang có những cuộc tọa đàm về hai vị giám mục người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris ‘MEP’ (Société des Missions étrangères de Paris) là Đức Cha Lambert de la Motte và François Pallu để mở hồ sơ phong chân phước và phong thánh cho các ngài. Chính nhờ những nhà thừa sai mà sau này chúng ta quen gọi là các nhà truyền giáo, mà Tin Mừng đã được loan báo và lớn mạnh trên quê hương Việt Nam cũng như những nơi mà Tin Mừng chưa được biết đến.

Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản chất, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est)[1]. Được sai đi loan báo Tin Mừng là để mang ơn cứu độ đến cho hết mọi dân tộc, để tất cả mọi người được nên một với nhau trong ‘Vương quốc Thiên Chúa’. Sứ vụ đó không gì khác chính là loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Suốt chiều dài lịch sử của mình, Giáo Hội luôn ý thức về nhiệm vụ này và đã không ngơi nghỉ cất bước trên mọi nẻo đường, vượt nhiều gian khổ, tìm nhiều cách thế, để Tin Mừng được loan báo đến khắp mọi nơi trên thế giới. Điều này Kitô hữu nào cũng biết, nhưng càng phải loan báo để mỗi người tìm cách nói về Chúa Kitô và làm chứng về Ngài trong môi trường sống của mình.

Trong những ngày học hỏi và nghiên cứu về truyền giáo tại Philippines, tôi có dịp trò chuyện nhiều với vị giáo sư của mình- người đã từng sống tại Kinh đô của Giáo hội trong vai trò là Phó bề trên tổng quyền, rồi sau đó là Bề trên tổng quyền 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Gần 20 năm trong vai trò là người điều hành một Hội Dòng truyền giáo quốc tế đang làm việc trên 80 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, ngài đã đi kinh lý hầu hết các quốc gia nơi có các nhà truyền giáo Dòng Ngôi Lời hiện diện và được tận mắt chứng kiến những công việc, cuộc sống và sứ vụ của các nhà truyền giáo, nên ngài còn được gọi là công dân của thế giới. Chính vì những chuyện mắt thấy, tai nghe nên giờ đây dù tuổi đã xế chiều nhưng tinh thần nhiệt huyết truyền giáo của ngài không hề suy giảm, ngài đã truyền lại những kinh nghiệm ấy cho các học trò và lớp đàn em của ngài ngọn lửa truyền giáo.

Tôi được may mắn học những ‘tuyệt chiêu’ truyền giáo của ngài qua những bài học trên giảng đường cũng như trong những cuộc nói chuyện sau các bữa ăn. Vì cũng từng đi truyền giáo ở các quốc gia và từng gặp ngài trước đây trong những chuyến kinh lý của ngài nên giữa ngài và tôi có những thâm tình và ngài lại thích nói tiếng Tây Ban Nha nên những cuộc nói chuyện của chúng tôi cũng tăng thêm phần hấp dẫn. Có lẽ cũng nhờ đó mà tôi cũng dần dần ‘thấm’ thêm lòng nhiệt huyết truyền giáo của ngài.

Trong Tông Huấn đầu tiên Evangelii Gaudium về việc Loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay của triều giáo hoàng của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Tôi muốn hướng đến mọi Kitô hữu Công Giáo, mời gọi họ bước vào một giai đoạn mới của việc Phúc Âm hóa, được ghi dấu ấn của niềm vui này và vạch lối đi cho Giáo Hội trong những năm tới.”[2] Bởi lẽ, sứ vụ truyền giáo là sứ vụ chính yếu của Giáo Hội nói chung và của mọi Kitô hữu nói riêng. Đó là trách nhiệm đầu tiên của chúng ta.

Nghe đến hai từ thừa sai hay truyền giáo, những người khác tôn giáo hay khác ý thức hệ có vẻ lo sợ và hiểu lầm là ‘truyền’ một tư tưởng hay học thuyết nào đó nên nhiều lần họ đã yêu cần các vị lãnh đạo trong giáo hội nên điều chỉnh lại hạn từ này. Tôi còn nhớ ngày tôi làm visa ‘truyền giáo’ đi Nam Mỹ, hai nhân viên an ninh phụ trách về tôn giáo khuyên tôi là nên thay đổi mục đích chuyến đi và đừng ghi là truyền giáo nhưng ghi là đi du lịch hay đi du học thì dễ cho họ hơn dù họ biết mục đích chuyến đi của tôi lúc ấy là gì. Có lẽ do những hiểu lầm không đáng có đó mà Giáo hội Việt Nam chúng ta hiện nay lại dùng thuật ngữ “Loan Báo Tin Mừng” thay cho hạn từ “Truyền giáo” và mỗi giáo phận tại Việt Nam có một ‘Ban Loan Báo Tin Mừng’ để hình thành nên ‘Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng’ trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.       

Với mô thức ‘Giáo Hội Là Truyền Giáo,’ chúng ta nhìn nhận Giáo Hội được mời gọi và hình thành bởi lời Chúa. Sứ vụ của Giáo Hội là loan báo những gì đã được nghe, đã tin, và được ủy thác. Mô thức này thuộc thần học loan báo Tin Mừng, vì nó xem Giáo Hội là người loan báo – người lãnh nhận sứ điệp chính thức với nhiệm vụ chuyển tiếp.

Khi nói về thần học loan báo Tin Mừng  hay thần học truyền giáo ngày nay, cần lưu ý đến những thay đổi quan trọng đã diễn ra trong cách hiểu và thực hành sứ vụ trong thời gian qua. Trong số nhiều thay đổi như vậy, có hai điều quan trọng, đó là sự thay đổi trong quan niệm về sứ vụ truyền giáo và sự thay đổi trong hoàn cảnh truyền giáo. Do đó, sự thay đổi cách thức truyền giáosự thay đổi tình huống truyền giáo.

Các nhà thần học truyền giáo ngày nay nói về một sự thay đổi cách thức trong thần học truyền giáo. Có nhiều cách khác nhau để mô tả sự thay đổi cách thức truyền giáo này. Một số người nói rằng đó là một sự chuyển đổi từ cách hiểu “lấy Giáo hội làm trung tâm” (Church-centered)  sang cách hiểu sứ vụNước Trời làm trung tâm” (Kingdom-centered).[3] Một số khác nói rằng đó là một sự chuyển đổi từ “cách chinh phục” (conquest mode) sang “cách đối thoại” (dialogue-mode) về sứ vụ truyền giáo.[4] Nhưng có lẽ tốt hơn nên nói về một sự chuyển đổi từ sứ vụ truyền giáo được hiểu là “missio ecclesiae” (sứ vụ của Giáo hội) sang sứ vụ truyền giáo được hiểu là “missio Dei” (sứ vụ của Thiên Chúa). Dù được mô tả như thế nào, sự thay đổi mô hình truyền giáo này đòi hỏi một sự thay đổi trong cách hiểu của chúng ta về bốn điều cơ bản về truyền giáo, đó là nguồn gốc của truyền giáo, mục tiêu của truyền giáo, phương thức truyền giáođộng cơ truyền giáo.

Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu sứ vụ truyền giáo đến từ đâu và ai là người khởi xướng việc truyền giáo. Theo truyền thống, nguồn gốc của việc truyền giáo được bắt nguồn từ “mệnh lệnh truyền giáo” được chính Chúa Kitô phục sinh trao cho các tông đồ vào ngày Ngài về trời. “Đức Giêsu đến gần, nói với các ông: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20). Chính lệnh truyền của Chúa cho Giáo Hội qua trung gian là các tông đồ, nên Giáo Hội được xem là nguồn gốc của việc truyền giáo.

Tuy nhiên, đối với truyền giáo học hiện đại, nguồn gốc hay nguồn của sứ vụ truyền giáo không phải là Giáo hội mà là chính Thiên Chúa Ba Ngôi. Ý tưởng này xuất phát từ chính Công Đồng Vatican II. Tài liệu của Công Đồng Vatican II về hoạt động truyền giáo của Giáo hội Ad Gentes, truy tìm nguồn gốc sứ vụ của Giáo hội từ việc Chúa Cha sai Chúa Con và Chúa Thánh Thần đến để thực hiện kế hoạch cứu độ phổ quát của Thiên Chúa (AG 1- 2, 9). Ý tưởng này được gọi là “nguồn gốc Ba Ngôi của Sứ vụ Truyền giáo”.

Ý tưởng này của Công Đồng Vatican II được xem là song hành với khái niệm Missio Dei trong thần học Tin lành, theo đó sứ vụ truyền giáo được hiểu là bắt nguồn từ chính bản chất của Thiên Chúa.[5] Truyền giáo thật ra không phải là một hoạt động của Giáo hội, mà là một thuộc tính của Thiên Chúa. Là Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa là vị Thiên Chúa truyền giáo, và truyền giáo được xem là một sự chuyển động từ Thiên Chúa cho thế giới. Giáo Hội được xem như một công cụ cho sứ vụ này. Như vậy, có Giáo Hội vì có sứ vụ truyền giáo chứ không phải ngược lại. Hoặc, không phải Giáo hội của Chúa Kitô có một sứ vụ truyền giáo, mà là sứ vụ của Chúa Kitô nên có một Giáo hội.[6]

Thần học đằng sau tất cả những điều này là tầm nhìn về Thiên Chúa Ba Ngôi như sự hiệp thông và giao tiếp, tương tác và đối thoại giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Và sự giao tiếp hoặc đối thoại bên trong này tràn vào – hay đúng hơn là bao trùm – sự sáng tạo và lịch sử. Như vậy, truyền giáo là cuộc đối thoại liên tục của Thiên Chúa Ba Ngôi với thế giới và với nhân loại, một cuộc đối thoại mời gọi và lôi kéo nhân loại hiệp thông trọn vẹn với cộng đồng Thiên Chúa. Như vậy, có sứ vụ truyền giáo không phải vì được Giáo hội ủy thác, nhưng vì có Thiên Chúa là Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì vậy, Truyền giáo, trước khi được nói đến những gì thuộc về Giáo hội, thì cần phải đến đến Thiên Chúa là ai.

Do đó, trong khi theo truyền thống, nguồn gốc của truyền giáo được truy nguyên từ “mệnh lệnh truyền giáo” được Giáo hội đón nhận vào ngày Chúa lên trời (xc. Mt 28,18-20), thì khoa truyền giáo học đương đại lại đẩy nguồn gốc của truyền giáo trở lại ngay từ thuở ban đầu, tức là đến tận trung tâm của Ba Ngôi, sự giao tiếp hoặc đối thoại bên trong của chính Cộng đồng Thiên Chúa.

Tiếp đến, chúng ta nói đến về mục tiêu của sứ vụ truyền giáo hay truyền giáo nhằm mục đích gì. Theo truyền thống, dựa trên “mệnh lệnh truyền giáo” của Chúa Kitô Phục sinh, mục tiêu của sứ vụ truyền giáo là “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Điều này đòi hỏi phải thành lập Giáo hội ở những nơi chưa tồn tại. “Plantatio Eclessiae” hay “mở rộng Giáo hội” là cách thể hiện mục tiêu của việc truyền giáo. Do đó, truyền giáo là vấn đề mở rộng Giáo hội hữu hình đến những nơi mà Giáo hội chưa hiện diện.

Khái niệm truyền giáo là Missio Dei (Sứ vụ của Thiên Chúa) hay Missio Trinitatis (Sứ vụ của Chúa Ba Ngôi) mở rộng phạm vi truyền giáo. Mục tiêu của nó không phải là mở rộng Giáo hội hữu hình mà là thực hiện chính sứ mạng của Thiên Chúa hay kế hoạch cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ này của Thiên Chúa có tính phổ quát và vũ trụ, bao trùm toàn thể nhân loại và, thực ra, bao trùm toàn thể tạo vật. Thánh Phaolô nói về sứ vụ đó như là “đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô.” (Ep 1, 10) hoặc như sự hòa giải mọi sự trong Chúa Kitô (x. Cl 1, 20). Sách Khải Huyền nói về sự kiện này như sự xuất hiện của trời mới và đất mới (x. Kh 21, 1-4). Chúa Giêsu công bố đó là tin mừng về “Nước Thiên Chúa” sắp đến.

Bản văn Kinh Thánh làm sáng tỏ sứ vụ của Chúa Giêsu nằm ở Lc 4, 16-30, thuật lại bài diễn văn đầu tiên trong sứ vụ công khai của Ngài tại hội đường Nazareth. Lời Kinh Thánh trong sách Ngôn sứ Isaia ám chỉ đến chính sứ vụ của Ngài (xem Is 61, 1tt), Chúa Giêsu đưa ra những nét đặc trưng trong sứ vụ của mình: “mang tin mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức”. Chương 4 của Tin Mừng Luca kết thúc bằng việc Chúa Giêsu nói với dân chúng: “Tôi cũng phải loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa ở các thành khác, vì chính vì mục đích này mà tôi được sai đến” (Lc 4, 43). Hình ảnh Nước Thiên Chúa là tầm nhìn của Chúa Giêsu về kế hoạch của Thiên Chúa dành cho một thế giới công bằng, tự do, huynh đệ và tình yêu, đòi hỏi cả sự hoán cải cá nhân lẫn sự biến đổi xã hội.

Đối với một số nhà truyền giáo học ngày nay, trình thuật của tin mừng Luca, cho tất cả mọi mục đích thiết thực,  đã thay thế “Huấn Lệnh” (Mt 28,16-20) của tin mừng Matthêu làm văn bản then chốt để hiểu không chỉ sứ mạng của Chúa Giêsu mà còn của Giáo hội.[7]

Nối tiếp về mục tiêu truyền giáo là phương thức truyền giáo. Theo truyền thống, đặc biệt là trong thời kỳ thuộc địa, sứ vụ truyền giáo được thực hiện theo cái gọi là “phương thức chinh phục.” Vào thời đó, các nhà truyền giáo thường bị cho là “theo đuôi bọn thực dân.”[8] Các tu sĩ và những người thực dân sát cánh bên nhau – người cầm thánh giá và người mang thanh gươm trong tay – để truyền giáo cho người bản xứ, nhưng cũng để khuất phục họ dưới sự thống trị của ngoại bang. Cách thực hiện việc truyền giáo này xuất phát từ thần học thời trung cổ, thời kỳ mà Giáo hội tin rằng mình là pháo đài duy nhất của sự thật. Các tôn giáo khác đều bị xem là sai lầm và tệ nhất là ma quỷ. Và Giáo hội xem việc chinh phục, thống trị và thay thế các tôn giáo đó là nghĩa vụ đạo đức của mình.[9]

Còn nhớ ở Việt Nam cũng xảy ra một thời kỳ tương tự như thế. Ở một số vùng truyền giáo, ban đầu khi mới đặt chân đến, các nhà truyền giáo đã cố gắng hết sức để nâng đỡ đời sống vật chất cho dân nghèo. Người nghèo muốn theo đạo và học giáo lý, ngài phát gạo và nhuu yếu phẩm cần thiết. Nhưng sau đó, không còn đủ gạo và nhu yếu phẩm để phát nữa, thì số người học đạo và tham dự thánh lễ mỗi ngày thưa dần. Rồi đến một ngày kia, một người thường xuyên hay lui tới nhà thờ đã nói cho các nhà truyền giáo biết “hung tin”. “Hung tin” đó là một số người trước đây vẫn thường xuyên đến nhà thờ học đạo và tham dự thánh lễ vì được phát gạo và nhu yếu phẩm, nay lại không đến nữa vì họ không thấy các nhà truyền giáo cho gì. Từ đó có thuật ngữ “Đạo Gạo” ra đời, theo đạo để có chút lợi lộc.

Loan Báo Tin Mừng ‘Evangelization’ (hay Truyền giáo ‘Mission’) liên quan đến toàn bộ hoạt động của Giáo hội, là bản chất và đặc tính của Giáo hội. Nó bao gồm cả ba hoạt động chính của Giáo hội, tức là truyền giáo cho muôn dân ‘Missio ad gentes’ (hoặc “loan báo tin mừng đầu tiên hoặc trước hết”), chăm sóc mục vụ (hoặc “truyền giáo liên tục”) và tái truyền giáo (hoặc “tân phúc âm hóa”). Như vậy, sứ vụ truyền giáo  không còn giới hạn ở một hoạt động duy nhất của Giáo hội nữa, mà bây giờ đề cập đến toàn bộ hoạt động của Giáo hội.

Trong quá khứ, có sự phân biệt rõ ràng giữa “các nhà truyền giáo” và “các mục tử”, hoặc giữa “linh mục giáo phận” và “linh mục truyền giáo”. Hình ảnh dành cho nhà truyền giáo là “người đánh cá” (hay người chài lưới người) có nhiệm vụ bắt những “người không tin Chúa”, “những người ngoại giáo” hoặc “những người không phải là Kitô hữu”, thường là ở những vùng đất xa lạ. Hình ảnh dành cho vị mục tử là “người chăn chiên” có nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên. Vì vậy, các nhà truyền giáo và mục tử, hoặc những người đánh lưới người và những người chăn chiên.[10]

Sự phân biệt rõ ràng này nảy sinh từ sự phân biệt ban đầu mà chúng ta đã nói đến trước đó giữa ba hoạt động của Giáo hội – đó là Mission ad gentes-truyền giáo cho muôn dân, chăm sóc mục vụtái truyền giáo. Trong kế hoạch này, các nhà truyền giáo là những người phụ trách hoạt động thứ nhất và thứ ba, tức là những người chưa tin vào Chúa Kitô và những người không còn tin vào Chúa Kitô, trong khi các mục tử là những người phụ trách hoạt động thứ hai, đó là là những người đã tin vào Chúa Kitô. Một cách khác để diễn tả sự khác biệt này khi nói rằng những người truyền giáo là những người tìm kiếm những người “chưa được quy tụ” (trong Giáo hội) và các mục tử là những người chăm sóc những người “đã được quy tụ”.

Trong sự phân biệt rõ ràng này, từ “truyền giáo” được dành riêng cho các linh mục dòng có lời khấn được sai đi truyền giáo nước ngoài để làm việc giữa những người chưa tin vào Chúa Kitô. Vì vậy, các linh mục giáo phận không phải là những nhà truyền giáo mà “chỉ là những mục tử”.[11]

Giờ đây, dưới ánh sáng của sự hiểu biết mới về sự khác biệt liên quan đến ba hoạt động của Giáo hội, chúng ta có thể thấy rằng sứ vụ của Giáo hội là sứ vụ truyền giáo duy nhất, trong đó thuật ngữ “sứ vụ” bao hàm “loan báo tin mừng đầu tiên” (hoặc missio ad gentes-truyền giáo cho muôn dân), truyền giáo liên tục (hoặc chăm sóc mục vụ) và “tân phúc âm hóa” (hoặc tái truyền giáo). Vì vậy, dưới ánh sáng của việc thể hiện sự phân biệt này, hiện nay không thể có sự phân biệt rõ ràng giữa các nhà truyền giáo và các mục tử giáo phận, cũng như thuật ngữ “nhà truyền giáo” không thể chỉ áp dụng riêng cho các linh mục dòng. Theo cách hiểu mới mẻ này, các linh mục giáo phận cũng thực sự là những “nhà truyền giáo”.

Trên thực tế, các tài liệu gần đây của Giáo hội đã nhấn mạnh đến “tính cách truyền giáo” hay “chiều kích truyền giáo” của chức linh mục Kitô giáo. Trong các tài liệu này, sứ vụ truyền giáo được nhìn nhận là một chiều kích thiết yếu của ơn gọi và thừa tác vụ linh mục. Thật vậy, nếu Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, thì chức linh mục trong Giáo hội cũng là chức linh mục truyền giáo - nghĩa là truyền giáo là một chiều kích toàn diện của chức linh mục.

Những nhà truyền giáo đích thực là những người đi ra khỏi “vùng an toàn” của mình để gặp gỡ “người khác”. Điều này đặc biệt đúng với “những nhà truyền giáo đa văn hóa” hay “những nhà truyền giáo nước ngoài” hoặc những nhà truyền giáo “vượt qua ngoại biên”. Là những nhà truyền giáo đa văn hóa, chúng ta được mời gọi sống và làm việc với những người khác biệt với chúng ta- về văn hóa, kinh tế xã hội, tôn giáo. Thật vậy, sứ vụ truyền giáo không chỉ dừng lại việc chăm sóc mục vụ trong ‘vùng an toàn’ của mình mà là gặp gỡ ‘người khác’.[12]

Một Hội Thánh “đi ra” là một Hội Thánh mở cửa. Đến với người khác để tới được các biên giới của loài người không có nghĩa là vội vã lao vào thế giới mà không có mục tiêu. Thường thì tốt hơn là nên đi từ từ, hãm bớt sự phấn khích của mình để nhìn và nghe người khác, không nhảy vội từ chuyện này sang chuyện khác, và nên ở lại bên cạnh người đã ngã dọc đường. Thỉnh thoảng chúng ta phải giống như người cha của đứa con hoang đàng, luôn luôn để cửa mở hầu khi đứa con trở về, nó có thể vào ngay trong nhà (EG 46). Một dấu hiệu cụ thể của sự cởi mở này là các cửa nhà thờ luôn mở, cũng như các cửa khác, chẳng hạn như “cửa của các Bí tích”, đặc biệt là Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể. Nhưng trong khi sự cởi mở của Giáo hội truyền giáo hướng tới “tất cả mọi người không có ngoại lệ”, thì người nghèo lại là “những người được đặc ân đón nhận Tin Mừng”, nghĩa là “không phải là bạn bè và những người hàng xóm giàu có của chúng ta, mà trên hết là người nghèo và người bệnh, những người thường bị khinh miệt và bỏ qua, 'những người không có khả năng trả ơn cho chúng ta' (Lc 14:14)” (EG 48). Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tôi muốn một Giáo hội nghèo và vì người nghèo. Họ có nhiều điều để dạy chúng ta… Chúng ta cần để mình được họ truyền giáo” (EG 198).

              Đây là những gì được nhấn mạnh trong quá trình chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Giám mục về “Tính đồng nghị”. Như chúng ta đã biết, từ “synod” xuất phát từ sự kết hợp của hai từ Hy Lạp: “syn” (có nghĩa là “cùng nhau”) và “hodos” (có nghĩa là “way-đường đi” hoặc “path-con đường” hay “road-đường phố”). Do đó, “Synod-Thượng hội đồng” hay “Synodality-Tính đồng nghị” có nghĩa là “cùng nhau bước đi”. Và đây là một mô tả hay về Giáo hội như dân lữ hành của Thiên Chúa cùng nhau tiến về Vương quốc của Thiên Chúa. Thánh giáo phụ Gioan Kim khẩu từng nói rằng các từ “thượng hội đồng” và “Giáo hội” đồng nghĩa với nhau. Trở thành Giáo hội là “đồng hành” hoặc “đồng nghị” với tư cách là Dân Chúa. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng Giáo hội, về bản chất, là có tính đồng nghị. Và nếu Giáo hội, về bản chất, cũng là truyền giáo, như Sắc lệnh Ad Gentes của Vatican II nói, thì một Giáo hội truyền giáo nhất thiết cũng là một Giáo hội đồng nghị.

              Về cơ bản, một “Giáo hội đồng nghị” là một Giáo hội biết lắng nghe. Như Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Đó là sự lắng nghe lẫn nhau trong đó mọi người đều có điều gì đó để [nói và] học hỏi. Các tín hữu giáo dân, các giám mục, giáo hoàng: tất cả đều lắng nghe nhau và tất cả đều lắng nghe Chúa Thánh Thần, “Thần Khí sự thật” (Ga 14:17), để biết Người đang nói gì với Giáo Hội”[13]. Do đó, quá trình chuẩn bị ở cấp giáo phận không chỉ là thời gian trả lời và điền vào các câu hỏi, mà còn là vấn đề đã sống hiện thực thực tế của tính đồng nghị. Vấn đề là phải thực hành ngay bây giờ những gì Giáo hội phải hướng tới sau Thượng Hội đồng Giám mục năm 2023.

              Đức Phanxico cũng chua xót khi chỉa sẻ: “Chúng ta hôm nay đang thấy nơi nhiều người hoạt động mục vụ, gồm cả những người sống đời thánh hiến, nam cũng như nữ, một sự quan tâm quá mức về tự do và sự thoải mái của bản thân họ, khiến họ coi công việc của họ như chỉ là một cái gì phụ thuộc chứ không phải một thành phần thuộc căn tính của họ. Đồng thời, đời sống thiêng liêng trở nên bị đồng hoá với một ít việc thực hành tôn giáo có thể đem lại một sự an ủi nào đó chứ không khuyến khích việc gặp gỡ người khác, dấn thân vào thế giới hay một niềm say mê loan báo Tin Mừng. Kết quả là chúng ta thấy nhiều người hoạt động rao giảng Tin Mừng, tuy họ vẫn cầu nguyện, nhưng có một lối sống rất cá nhân chủ nghĩa, một sự khủng hoảng căn tính và nhiệt tình trở nên nguội lạnh. Ba điều xấu này tác động lẫn nhau” (EG 78).

              Ở đây, Đức Thánh Cha Phanxicô dường như đang nói rằng các tác nhân truyền giáo, hay các nhà truyền giáo, không thể xây dựng đời sống tâm linh của họ chỉ hoặc thậm chí chủ yếu bằng các hoạt động tôn giáo. Đúng hơn, Đức Thánh Cha khuyến khích một nền linh đạo nảy sinh từ “sự gặp gỡ với người khác, sự gắn kết với thế giới và niềm đam mê truyền giáo”. Đây là điều mà chúng ta có thể gọi là “linh đạo gặp gỡ” - một ý tưởng tiêu biểu của châu Mỹ Latinh, “encuentro-gặp gỡ”, “espiritualidad de encuentro-linh đạo gặp gỡ”.[14] Do đó, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích một nền linh đạo gặp gỡ – đặc biệt là gặp gỡ với “người khác” – như chúng ta đã nói trước đó, người khác về mặt kinh tế, người khác về mặt xã hội, người khác về văn hóa, người khác về tôn giáo người khác về ý thức hệ.

Trong Evangelii Gaudium số 27, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng ngài mơ về một ‘lựa chọn truyền giáo’, nghĩa là ngài mơ về một Giáo hội chuyển từ phương thức bảo tồn sang phương thức truyền giáo - nói cách khác, một Giáo hội có cơ cấu và nguồn lực “được hướng tới việc truyền giáo cho thế giới hơn là để tự bảo tồn.” Ngài nói, “Chúng ta cần phải chuyển từ mục vụ chỉ mang tính bảo tồn sang mục vụ có tính chất truyền giáo rõ ràng” (EG 15). “Việc quản trị thuần túy đã trở nên bất cập. Trên khắp thế giới, chúng ta hãy thường xuyên ở trong trạng thái truyền giáo” (EG 25). “Việc tiếp cận truyền giáo là mô hình cho mọi hoạt động của Giáo hội” (EG 15).

Vì vậy, Đức Thánh Cha Phanxicô lên tiếng chống lại “sự bảo tồn của giáo hội”. “Mọi sự đổi mới trong Giáo hội phải lấy sứ vụ truyền giáo làm mục tiêu nếu không trở thành nạn nhân của một kiểu bảo tồn trong Giáo hội” (EG 27). Trong các bài diễn văn khác của mình, ngài gọi đây là một “giáo hội tự quy chiếu”, tức là một giáo hội có căn tính và sứ mạng được xác định dựa vào chính nó hơn là liên quan đến thế giới. Và vì thế, ngài mơ về một Giáo hội hướng ngoại hơn là hướng nội; một Giáo hội quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề “ad-extra” hơn là những vấn đề “ad-intra” (x. EG 27-28) – ngài còn nói: “Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục” (EG 49).

Một Giáo hội truyền giáo là một Giáo hội đi ra “từ vùng an toàn của mình để đến với tất cả các ‘vùng ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (EG 20). Hội Thánh “đi ra” là một cộng đoàn các môn đệ truyền giáo đi bước trước, dấn thân và nâng đỡ, sinh hoa trái và vui mừng. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng biết rằng Chúa đã có sáng kiến, Ngài đã yêu chúng ta trước (xc. Ga 4,19), và vì thế chúng ta có thể dấn bước, mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề. Một cộng đoàn như thế có một ước muốn khôn nguôi là tỏ lòng thương xót, kết quả của kinh nghiệm bản thân của cộng đoàn về sức mạnh lòng thương vô biên của Thiên Chúa. Chúng ta hãy thử cố gắng hơn một chút để đi bước trước và dấn thân. Đức Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Chúa dấn thân và mời gọi các môn đệ dấn thân, khi Ngài cúi xuống rửa chân họ. Ngài bảo các môn đệ: “Nếu anh em thực hành, thì phúc cho anh em!” (Ga 13,17). Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn thân vào đời sống hằng ngày của mọi người bằng lời nói và hành động; cộng đoàn ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau khổ của Đức Kitô nơi người khác. Như vậy, các người loan báo Tin Mừng mang lấy “mùi của đàn chiên” và đàn chiên sẵn sàng nghe tiếng của họ. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu. Cộng đoàn này cũng quen với việc kiên nhẫn chờ đợi và sự chịu đựng tông đồ. Loan báo Tin Mừng phần lớn hệ tại sự kiên nhẫn và không quan tâm tới áp lực của thời gian (EG 24).

Tầm nhìn này về Giáo hội đòi hỏi sự biến đổi truyền giáo của các cơ cấu Giáo hội. Giáo xứ phải là ‘trung tâm của việc tiếp cận truyền giáo liên tục’ có tính linh động cao, nó có thể tiếp thu những tình huống khá khác biệt tuỳ theo sự cởi mở và óc sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn (EG 28). Giáo phận hoặc Giáo hội địa phương là chủ thể hàng đầu của việc loan báo tin mừng vì nó là sự biểu hiện cụ thể của một Hội Thánh duy nhất tại một nơi xác định, và ở đó “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền thực sự hiện diện và hoạt động”. Đó chính là Hội Thánh nhập thể tại một địa phương, được trang bị mọi phương tiện cứu rỗi do Đức Kitô thông ban, nhưng với những nét đặc trưng địa phương (EG 30), và giám mục phải luôn luôn nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo này trong Giáo Hội địa phương của mình, theo lý tưởng của các cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi, ở đó các tín hữu đều một lòng một trí với nhau (EG 31). Tương tự như vậy, Đức Phanxico cũng nói về một sự hoán cải của sứ vụ giáo hoàng, ngài nói: “Là Giám Mục của Roma, tôi có bổn phận lắng nghe các đề nghị có thể giúp việc thực thi thừa tác vụ giáo hoàng của tôi trung thành hơn với ý nghĩa mà Đức Giêsu Kitô muốn gán cho sứ vụ này và cho các nhu cầu hiện nay của việc loan báo Tin Mừng. Đức Gioan Phaolô II từng xin giúp ngài tìm ra ‘một cách thực thi quyền tối thượng sao cho nó hoàn toàn không từ bỏ những gì thiết yếu cho sứ mạng, nhưng vẫn cởi mở trước các tình hình mới’. Giáo hoàng và các cơ cấu trung ương của Hội Thánh hoàn vũ cũng cần nghe tiếng gọi hoán cải mục vụ (EG 32). Mục tiêu của sự chuyển đổi này là “sứ vụ mục vụ trong trọng tâm truyền giáo” (EG 33), đòi hỏi phải từ bỏ “thái độ tự mãn cho rằng: 'Chúng tôi vẫn luôn luôn làm như thế!’ và mạnh dạn và sáng tạo trong việc suy xét lại các mục tiêu, cơ cấu, phong cách và phương pháp truyền giáo tại các cộng đoàn của mình” (EG 33).

Nếu chúng ta cố gắng đặt tất cả vào trong một nhãn quan truyền giáo, việc này cũng sẽ ảnh hưởng tới cách chúng ta thông truyền sứ điệp. Trong thế giới hôm nay với tốc độ truyền thông tức thời và ảnh hưởng nhiều khi thiên lệch của các phương tiện truyền thông, sứ điệp chúng ta rao giảng có nhiều nguy cơ bị xuyên tạc hay bị giản lược vào những nội dung thứ yếu (EG 34). Mục vụ theo phong cách truyền giáo phải “tập trung vào những điều thiết yếu” (EG 35), vào “cốt lõi cơ bản”, tức là “vẻ đẹp của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại từ cõi chết” ( EG 36). Về mặt giáo huấn luân lý của Giáo Hội, “điều quan trọng hơn hết là ‘đức tin hành động qua tình yêu’ (Gl 5,6). Những việc làm yêu thương hướng tới người lân cận là biểu hiện bên ngoài hoàn hảo nhất của ân sủng bên trong của Chúa Thánh Thần” (EG 37). “Trước hết, Tin Mừng mời gọi chúng ta đáp lại Thiên Chúa tình yêu, Đấng cứu độ chúng ta, nhìn thấy Thiên Chúa nơi người khác và ra đi từ chính mình để tìm kiếm thiện ích cho người khác” (EG 39).

Giáo hội truyền giáo đảm nhận nhiệm vụ truyền giáo giữa những giới hạn của con người – trong “việc giải thích lời mặc khải và trong sự hiểu biết về sự thật” (EG 40), trong cách diễn đạt và truyền đạt những chân lý không thay đổi (EG 41), và bởi “một số phong tục không liên quan trực tiếp đến trọng tâm của Tin Mừng” (EG 43). Vì vậy, sự phát triển trong đức tin là một hành trình trong đó con người cần được đồng hành với “lòng thương xót và sự kiên nhẫn”. “Một bước nhỏ, giữa những giới hạn to lớn của con người, có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn là một cuộc sống bề ngoài có vẻ ngăn nắp nhưng vẫn hoạt động qua ngày mà không gặp phải những khó khăn lớn lao” (EG 44). “Nhiệm vụ truyền giáo hoạt động trong giới hạn của ngôn ngữ và hoàn cảnh”, nhưng nó phải không ngừng tìm cách “truyền đạt chân lý của Tin Mừng một cách hiệu quả hơn” ngay cả ở những nơi không thể hoàn thiện (EG 45).

Sự hiểu biết về truyền giáo như là Missio Dei (Sứ vụ của Thiên Chúa) thừa nhận rằng ngay từ đầu Thiên Chúa đã đối thoại với mọi dân tộc. Do đó, các truyền thống tôn giáo và văn hóa khác đều chứa đựng “hạt giống Lời Chúa” (AG 11) hoặc “tia sáng Chân lý” (NA 2). Chúng không hoàn toàn xấu xa hay có lỗi. Vì vậy, Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh đến vấn đề đối thoại. Một số tài liệu của Công đồng nêu rõ rằng Giáo hội không bác bỏ điều gì chân thật và thánh thiện trong các tôn giáo khác, đồng thời kêu gọi các tín hữu  Công giáo hãy thận trọng và bác ái tham gia thảo luận và cộng tác với các thành viên của các tôn giáo khác.[15]

Các tài liệu hậu công đồng càng nhấn mạnh ý tưởng đối thoại một cách mạnh mẽ hơn. Chẳng hạn, một tài liệu năm 1984 của Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn[16] khẳng định rằng đối thoại là “chuẩn mực và cách thức cần thiết trong mọi hình thức cũng như mọi khía cạnh của sứ mệnh Kitô giáo”. Nói cách khác, đối thoại không còn đơn giản là một lựa chọn mà chúng ta được tự do làm hoặc không làm. Đối thoại hiện nay là một mệnh lệnh truyền giáo mà chúng ta không thể thiếu. Các tài liệu hậu công đồng khác cũng nói điều tương tự. Chẳng hạn, thông điệp đầu tiên Eccesiam Suam (Hội Thánh của Người) của Đức Phaolô VI, số 72 đã nhấn mạnh: “Sự đối thoại bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Tôn giáo tự bản chất là một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người. Cầu nguyện diễn tả mối tương quan đó. Mạc khải, tức là mối tương quan siêu nhiên do sáng khởi của Thiên Chúa đối với nhân loại, có thể diễn tả như một cuộc đối thoại, một cuộc đối thoại thân tình: bé thơ được mời đến và nhà thần bí cũng cảm thấy thích thú.”[17]

Trong Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế) số 57 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc đến: “Mỗi thành viên tín hữu và mọi cộng đồng Kitô giáo đều được mời gọi thực hành đối thoại, mặc dù không phải lúc nào cũng ở cùng một mức độ hoặc theo cùng một cách thức.”[18]

              Điều cơ bản về truyền giáođộng cơ truyền giáo hay nói cách khác là động lực nào dẫn đến việc truyền giáo. Theo truyền thống, động cơ của sứ vụ truyền giáo là cứu rỗi những ai chưa tin nhận Thiên Chúa, những người nếu chưa được rửa tội và được đưa vào giáo hội sẽ có nguy cơ bị đày đọa vĩnh viễn. “Ngoài Giáo hội không có ơn cứu rỗi” (“extra ecclesiam nulla salus”) - đây là một tiền đề đã phát động phong trào truyền giáo vĩ đại vào thế kỷ 16 và thúc đẩy các nhà truyền giáo lớn trong quá khứ đi đến những vùng đất xa lạ. “Salus animarum” hay “sự cứu rỗi các linh hồn” là động cơ truyền giáo được thể hiện theo truyền thống.

              Tuy nhiên, ngày nay chúng ta không còn chia sẻ nỗi lo lắng của quá khứ nữa. Công đồng Vatican II công nhận các tôn giáo khác – và thậm chí cả nỗ lực chân thành để tìm kiếm sự thật (xem LG 16) – là những kênh ân sủng và con đường cứu rỗi. Giờ đây chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã không bỏ rơi và cũng sẽ không bỏ rơi dân Người. Vì vậy, chúng ta không mang Chúa Kitô đến những nơi mà Người chưa hiện diện cách nào đó. Chúa Kitô và Thánh Thần của Người ở khắp mọi nơi trước chúng ta và phía trước chúng ta, theo những cách mà chúng ta không biết. Nhiệm vụ của sứ mạng ngày nay là khám phá và củng cố sự hiện diện này của Chúa Kitô và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thế giới.

              Vì vậy, ngày nay, động cơ của sứ vụ truyền giáo được nhìn nhận dưới góc độ vai trò môn đệ. Sứ vụ truyền giáo tồn tại không phải vì chúng ta cần cứu những người không phải là Kitô hữu khỏi án phạt đời đời, nhưng vì chúng ta được mời gọi làm môn đệ trong Chúa Giêsu. Và đi theo Chúa Giêsu chính là đi theo Người trong sứ mạng thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

              Điều này kéo theo một sự thay đổi trong cách hiểu động cơ truyền giáo. Trong quá khứ, động cơ của việc truyền giáo nằm ở nhu cầu của những người tiếp nhận tin mừng hoặc đối tượng của việc truyền giáo, tức là nhu cầu của những người chưa đón nhận Thiên chúa được nghe tin mừng và nhờ đó đạt được sự cứu rỗi. Giờ đây, động cơ của việc truyền giáo nằm ở nhu cầu của những người mang tin mừng hoặc đối tượng truyền giáo, tức là người môn đệ đi theo Chúa và chia sẻ sứ vụ của Người. Nói cách khác, người môn đệ là người cảm nghiệm Tin Mừng như một tin vui,  tin tốt lành đến mức họ cần chia sẻ niềm vui đó cho người khác.

              Trên thực tế, đây dường như là “logic của tin mừng”. Nếu điều gì đó thực sự tốt thì nó cần được chia sẻ với người khác. Trong Tin Mừng Thánh Luca, khi Đức Maria cảm nghiệm tin vui về việc ngài được chọn làm mẹ của Con Thiên Chúa, đó là một tin vui đối với ngài đến nỗi ngài cần chia sẻ tin vui ấy với người khác. Vì vậy, Mẹ đã vội vã đi qua vùng đồi núi Giuđêa để thăm chị họ là Êlisabét và chia sẻ tin vui này với người chị họ (x. Lc 1,26-45). Hoặc, trong dụ ngôn đồng tiền bị mất, người phụ nữ tìm thấy đồng tiền bị mất đã vui mừng đến mức gọi bạn bè, hàng xóm lại để chia sẻ tin vui này với họ (x. Lc 15,8-10). Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói, trải nghiệm về “Niềm vui Tin Mừng” là nền tảng và là nguồn gốc của sứ vụ (EG 20-23).

Ngay trong tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan Báo Tin Mừng), Đức Phaolô VI đã báo hiệu sự thay đổi này. Ở số 80, ngài nói: “Cũng tốt thôi nếu mọi Kitô hữu và mọi nhà truyền giáo cầu nguyện xoay quanh tư tưởng sau đây: Bởi tình thương Thiên Chúa, con người cũng có thể chiếm được ơn cứu độ bằng những đường lối khác, cho dù chúng ta không rao giảng Tin Mừng cho họ; thế nhưng, về phần chúng ta, chúng ta có thể chiếm được ơn cứu độ được chăng, nếu chúng ta không rao giảng Tin Mừng, chỉ vì lơ là, sợ hãi hay xấu hổ - điều Thánh Phaolô gọi là “hổ thẹn vì Tin Mừng” (x. Rm 1, 16) - hay do bởi những tư tưởng sai lầm? Làm như thế là chúng ta phản bội lời mời gọi của Thiên Chúa, Ðấng muốn hạt giống sinh hoa kết trái nhờ tiếng nói của các thừa tác viên Tin Mừng; hạt giống này lệ thuộc vào chúng ta, trong việc lớn lên thành cây cũng như trong việc sinh nhiều hoa trái…” (EN 80).

              Như vậy, hơn cả việc cứu rỗi những người không phải là Kitô hữu, động lực của sứ vụ truyền giáo là cứu rỗi những người Kitô hữu. Như Thánh Phaolô đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).

Chúng ta vừa thẩm định về sự thay đổi cách thức truyền giáo” và hiểu 4 điều cơ bản về truyền giáo. Giờ đây, chúng ta tiếp tục tìm hiểu về sự thay đổi tình huống truyền giáo. Những điều thay đổi đó cần được kể đến là việc truyền giáo mang tính một chiềuviệc truyền giáo mang tính đa chiều.

Kể từ thời Giáo hội sơ khai, đã có sự phân biệt và ranh giới rõ ràng giữa “populus Dei” (Dân Thiên Chúa) và “gentes” (muôn dân/dân ngoại) - nghĩa là, sự phân biệt giữa dân được Chúa chọn và các quốc gia, hoặc người Do Thái và dân ngoại, người được cắt bì và người không được cắt bì, người có đức tin và người ngoại giáo. Trên thực tế, sự phân biệt này đã trở thành nền tảng cho sự phân chia nhiệm vụ giữa Phêrô và Phaolô. Trái lại, các ngài thấy rằng tôi đã được ủy thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như ông Phêrô được ủy thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người được cắt bì. Thật vậy, Đấng đã hoạt động nơi ông Phêrô, biến ông thành Tông Đồ của những người được cắt bì, cũng đã hoạt động biến tôi thành Tông Đồ các dân ngoại”. (Gl 2, 7-8).

Sự phân biệt này cũng được thể hiện như sự phân biệt giữa trung tâm đức tin và vùng ngoại vi của sự vô tín, hay sự phân biệt giữa “bên trong” và “bên ngoài”. Trong thời Giáo Hội tiên khởi, trung tâm đức tin là Giêrusalem và các quốc gia xung quanh là vùng ngoại vi của sự vô tín. Trong phần lớn lịch sử của giáo hội, Châu Âu theo Kitô giáo là trung tâm của đức tin và phần còn lại của thế giới là vùng ngoại vi của sự vô tín. Trong bối cảnh của sự phân biệt kép này, “missio ad gentes(Sứ vụ đến với muôn dân) nhất thiết phải là “missio ad extra (Sứ vụ đi ra ngoài). Truyền giáo là “đi ra ngoài” (ad extra) đến “các dân tộc ngoại giáo” (ad gentes). Truyền giáo là một phong trào một chiều từ Châu Âu theo Kitô giáo đến thế giới ngoại giáo. Do đó, các cách diễn tả các quốc gia sai đi truyền giáo” (haygởi nhà truyền giáo”) và các quốc gia “tiếp nhận truyền giáo” (hoặc “tiếp nhận nhà truyền giáo”). Hoặc các cách diễn đạt “giáo hội truyền giáo” và “giáo hội đón nhận truyền giáo”.

Tuy nhiên, sứ vụ truyền giáo mang tính một chiều đơn độc ấy dễ dẫn đến thái độ quan liêu, độc đoán và dễ xem mình là chân lý và xem thường đối tác được xem là “ad gentes” (dân ngoại). Bởi thế, Giáo hội đã điều chỉnh phương thức truyền giáo và xem việc truyền giáo mang tính đa chiều là phương thế hữu hiệu để có thể đến với mọi người, mọi dân tộc. Hai diễn biến gần đây đã thay đổi hoàn toàn tình trạng này – một là trong Giáo hội và một là trên thế giới.

Diễn biến đầu tiên là sự xuất hiện của các nhà truyền giáo có nguồn gốc từ phía Nam của thế giới. Châu Âu không còn là nguồn gởi các truyền giáo duy nhất hoặc thậm chí chính yếu nữa. Điều này liên quan đến sự sụt giảm mạnh về ơn gọi tu sĩ và linh mục ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Vì vậy, hiện nay chúng ta đang chứng kiến hiện tượng các nhà truyền giáo có nguồn gốc từ phía Nam – từ Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh. Ngược lại, điều này liên quan đến sự phát triển về ơn gọi và sự trưởng thành của những gì trước đây được gọi là “các giáo hội truyền giáo” hay các giáo hội của những quốc gia được gọi là “tiếp nhận truyền giáo.” Đây không chỉ là vấn đề mà đôi khi được gọi là “truyền giáo ngược” - nghĩa là, những người truyền giáo từ các vùng truyền giáo trước đây sẽ đi truyền giáo đến Châu Âu hoặc Bắc Mỹ. Đối với các nhà truyền giáo từ phía Nam cũng đi truyền giáo đến Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh. Vì vậy, ngày nay chúng ta nói không chỉ về việc truyền giáo “từ nam ra bắc” mà còn về việc truyền giáo “từ nam tới nam”, trái ngược với tình hình trước đó khi truyền giáo phần lớn là một hiện tượng “bắc vào nam.”

Tôi còn nhớ khi làm việc truyền giáo ở Amsterdam, Hòa Lan cách đây không lâu. Trong một buổi chia sẻ giữa các tu sĩ truyền giáo Dòng Ngôi Lời về các sinh hoạt truyền giáo tại châu Âu vào những năm tháng qua. Một nhà truyền giáo Ngôi Lời đến từ Indonesia đã tâm sự rằng khi ngài đặt chân đến Hòa Lan với bài sai truyền giáo đầu tiên thì ngài bị ‘sốc’ khi những người dân bản xứ Hòa Lan hỏi ngài đến đây để làm gì. Ngài thành thật trả lời với họ là ngài có bài sai đến Hòa Lan để làm việc truyền giáo. Họ nói rằng Hòa lan không cần các nhà truyền giáo vì Hòa Lan đã từng gởi các nhà truyền giáo trên khắp thế giới trong đó có Indonesia từng là thuộc địa của Hòa Lan để loan báo Tin Mừng. Vị linh mục ấy khiêm tốn trả lời họ rằng Indonesia và các quốc gia châu Á khác trước đây được đón nhận Tin Mừng từ những nhà truyền giáo châu Âu, nay hạt giống Tin Mừng ấy đã trổ sinh hoa trái và những người con ở các quốc gia từng đón nhận hạt giống Tin Mừng muốn trở lại thăm bố mẹ để phụng dưỡng bố mẹ và các bậc tiền bối như là sự trả ơn và muốn cùng bố mẹ không ngừng tạ ơn Chúa vì chính nhờ việc đón nhận Tin Mừng mà cuộc sống của họ trở nên an vui và hạnh phúc hơn.

Dòng truyền giáo Ngôi Lời ‘Socitetas Verbi Divini’ (SVD) do một vị sáng lập người Đức là thánh Arnold Janssen đã đọc được các dấu chỉ thời đại nên ngài đã thành lập một Hội Dòng Truyền giáo mang đậm tính quốc tế, và chính vì điều đó nên Hội Dòng mới sống còn và đang phát triển mạnh mẽ và đi đúng hướng theo dòng chảy của thế giới hôm nay. Theo một thống kê gần đây từ văn phòng Tổng Quyền của Hội Dòng SVD, hiện có khoảng 900 nhà truyền giáo Châu Á (nghĩa là từ phía Nam thế giới) đang được sai đi truyền giáo tại Châu Âu, Hoa Kỳ, Châu Mỹ Latinh, Châu Phi và các khu vực khác của Châu Á. Thật vậy, vùng Châu Á-Thái Bình Dương (ASPAC) của Dòng Ngôi Lời hiện đã trở thành nguồn cung cấp các nhà truyền giáo chính cho Hội Dòng trong những năm qua. Hơn 2/3 các tu sĩ truyền giáo có bài sai đầu tiên trong Dòng SVD đều đến từ vùng Châu Á-Thái Bình Dương (ASPAC). Tương tự, nhưng ở quy mô nhỏ hơn, Dòng Ngôi Lời cũng có khoảng 50 nhà truyền giáo người Châu Phi làm việc bên ngoài Châu Phi, và cùng số lượng các nhà truyền giáo SVD đến từ châu Mỹ Latinh đang làm việc bên ngoài Châu Mỹ Latinh. Điều này có nghĩa là gần 1.000 nhà truyền giáo từ phía Nam của thế giới của một Hội Dòng đang được sai đi truyền giáo tại những nơi mà trước đây thuộc về các nhà truyền giáo của cựu lục địa châu Âu. Tình trạng này cũng tương tự ở các hội dòng tu sĩ-truyền giáo khác trên thế giới.[19]

Sự phát triển khác là sự đa dạng văn hóa ngày càng tăng của nhiều thành phố và quốc gia trên thế giới. Do hiện tượng di dân quốc tế, xã hội ngày nay ngày càng trở nên đa văn hóa. Vào đầu thiên niên kỷ mới, người ta ước tính có 150 triệu người di dân quốc tế trên toàn thế giới (tức là cứ 50 người thì có một người).[20] Tương tự, ước tính có 50 triệu người tị nạn hoặc người di cư cưỡng bức (tức là một trong số 120 người).[21] Người ta nói rằng ngày nay, sau thập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới, số người di cư đã tăng lên khoảng 214 triệu người, tức là cứ 33 người thì có một người.[22]

Trong khi di cư là một hiện tượng lâu đời có từ thời tổ phụ Apraham, thì bản chất của di cư toàn cầu trong thời đại chúng ta lại là điều khiến nó trở nên nổi bật đặc biệt. Ngày nay, nhiều người lựa chọn hoặc buộc phải di cư hơn bao giờ hết và họ đi đến các quốc gia ngày càng gia tăng. Những người di dân quốc tế đến từ khắp nơi trên thế giới và đi đến mọi nơi trên thế giới. Kết quả là, ngày nay mọi người từ các nền văn hóa khác nhau không chỉ tiếp xúc gần gũi hơn nhiều mà đôi khi họ còn bị buộc phải sống cùng nhau. Nhiều thành phố trên thế giới ngày nay là nơi sinh sống của các nhóm văn hóa đa dạng. Và thường thì sự đa dạng của các nền văn hóa cũng có nghĩa là sự đa dạng của tôn giáo. Phong trào di cư ồ ạt này đang thay đổi hoàn toàn bộ mặt các thành phố của chúng ta.

Với sự di cư ồ ạt của người dân ngày nay dẫn đến tình trạng đa văn hóa trên thế giới, nên sứ vụ đến với muôn dân (missio ad gentes) không còn có thể được đồng nhất với việc truyền giáo ra đi ‘ad extra’ nữa. Vì gentes “muôn dân” không còn chỉ là những người ở ngoài kia, những người ở bên ngoài nữa. Gentes “muôn dân” cũng ở đây giữa chúng ta và xung quanh chúng ta. Đó có thể là gia đình sống bên cạnh, người ngồi cạnh trên xe buýt với tôi, người thanh niên đến sửa tivi cho tôi, người thợ cắt tóc cho tôi, người phụ nữ ở chợ nơi tôi mua rau… Ngày nay, sứ vụ truyền giáo ngày càng cần được hiểu không chỉ là sứ vụ đến với muôn dân ‘missio ad gentes’ mà còn là sứ vụ ở giữa muôn dân ‘missio inter gentes’.

Từ những nhận định trên đây, có thể rút ra hai gợi ý cho sự hiểu biết về truyền giáo ngày nay, đó là sứ vụ truyền giáo như là sứ vụ ở giữa muôn dân ‘missio inter gentes’ và sứ vụ truyền giáo như là sự cổ võ một Giáo hội liên văn hóa.

Gợi ý đầu tiên cần đề cập đến đó là truyền giáo như là sứ vụ ở giữa muôn dân ‘missio inter gentes’. Khi được nhìn nhận sứ vụ ở giữa muôn dân ‘missio inter gentes’ không phải là sự thay thế mà là sự bổ sung cho sứ vụ đến với muôn dân ‘missio ad gentes’, lúc đó sứ vụ ở giữa muôn dân ‘missio inter gentes’ có thể làm phong phú thêm sự hiểu biết của chúng ta về sứ vụ truyền giáo ngày nay. Ba sắc thái của sứ vụ ở giữa muôn dân ‘missio inter gentes’ có thể giúp ích đặc biệt trong việc mở rộng khái niệm truyền giáo của chúng ta, đó là: Đối thoại VỚI mọi người; Gặp gỡ GIỮA các dân tộc; và, Tìm kiếm một ngôi nhà GIỮA mọi người.

Trong khi “ad gentes” nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc loan báo, thì “inter gentes” nhấn mạnh đến tính tất yếu của đối thoại trong truyền giáo. Trong khi việc trực tiếp loan báo Tin Mừng vẫn là một yêu cầu thường xuyên trong sứ vụ truyền giáo, thì đối thoại cũng đã trở thành một mệnh lệnh truyền giáo. Như đã đề cập trước đó, tài liệu năm 1984 của Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn khẳng định rằng “Đối thoại là chuẩn mực và cách thức cần thiết trong mọi hình thức cũng như mọi khía cạnh của sứ mạng Kitô giáo”. Nói cách khác, đối thoại không còn đơn giản là một lựa chọn mà chúng ta được tự do làm hoặc không làm. Bây giờ nó là một mệnh lệnh trong sứ vụ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Redemptoris Missio diễn đạt điều đó như sau: “Mỗi thành viên tín hữu và mọi cộng đồng Kitô giáo đều được mời gọi thực hành đối thoại, mặc dù không phải lúc nào cũng ở cùng một mức độ hoặc cùng một cách thức” (RM 57).

Trong khi “ad gentes” đưa ra ý tưởng về một nhóm người chuyên biệt (các nhà truyền giáo, tu sĩ, linh mục) được sai đi truyền giáo cho các dân tộc khác, thì “inter gentes” gợi lên ý niệm về sứ vụ truyền giáo diễn ra trong cuộc gặp gỡ giữa toàn bộ cộng đồng hoặc các nhóm người. Chẳng hạn, người ta có thể nghĩ đến cuộc đối thoại trong cuộc sống giữa các thành viên của một giáo xứ Công giáo và những người thuộc cộng đồng Hồi giáo địa phương, hoặc giữa học sinh của một trường Công giáo và học sinh của một trường không Công giáo. Người ta cũng có thể nghĩ đến chứng tá của những người Công giáo di cư tại một quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông, hay chứng tá của những người Công giáo di cư giúp việc gia đình tại các gia đình ở châu Âu bị tục hóa. Như các tài liệu của Giáo hội không bao giờ mệt mỏi lặp đi lặp lại, sứ vụ truyền giáo không chỉ là đặc quyền của những cá nhân chuyên môn trong Giáo hội mà còn là nghĩa vụ của toàn thể Dân Chúa.

Trong khi “ad gentes” nhấn mạnh đến bản chất đa văn hóa của việc truyền giáo và gợi lên hình ảnh nhà truyền giáo được sai đến một dân tộc khác, thì “inter gentes” nhấn mạnh thực tế là nhà truyền giáo được sai đi để định cư và tìm một ngôi nhà mới giữa những người dân. Sứ vụ truyền giáo của một người không chỉ có nghĩa là một nơi làm việc tạm thời mà còn là một ngôi nhà lâu dài giữa một dân tộc mới. Đây là một phần của toàn bộ mục đích hội nhập văn hóa và thích ứng văn hóa. Đây là một phần logic của sự nhập thể. Giống như Ngôi Lời đã cắm lều giữa chúng ta, nhà truyền giáo cũng phải cắm lều giữa những người mà mình được sai đến. Điều này được minh họa trong cuộc sống của nhiều nhà truyền giáo trong quá khứ. Một ví dụ là Thánh Joseph Freinademetz, nhà truyền giáo Ngôi Lời đầu tiên đến Trung Quốc, ngài đã nỗ lực trở thành “người Trung Quốc giữa những người Trung Quốc.” Chỉ khi nào người ta thành công trong việc biến đổi mình để trở nên một với dân chúng, thì nhà truyền giáo mới có thể biến đổi dân chúng trở thành những người theo Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Do đó, sứ vụ ở giữa muôn dân ‘Missio INTER gentes’ mở rộng sự hiểu biết của chúng ta về sứ vụ truyền giáo – đó là sứ vụ Đối thoại VỚI mọi người; Gặp gỡ GIỮA các dân tộc; và, Tìm kiếm một ngôi nhà GIỮA mọi người.

Gợi ý tiếp theo đó là sứ vụ truyền giáo như là sự cổ võ một Giáo hội liên văn hóa. Trong bối cảnh một thế giới ngày càng trở nên đa văn hóa, mục tiêu chính của việc truyền giáo phải là cổ võ một Giáo hội thực sự liên văn hóa.

Có vẻ thích hợp hơn khi nói về một Giáo hội đa văn hóa hoặc liên văn hóa hơn là Giáo hội hoàn vũ. Bởi vì việc nói về “Giáo hội Hoàn vũ” thường dựa trên, một cách có ý thức hay vô thức, vào việc giải thích sự hiệp nhất là sự đồng nhất, trong đó các nền văn hóa khác nhau của con người được gộp vào nền văn hóa thống trị vốn hình thành nên Giáo hội Hoàn vũ. Mặt khác, một Giáo hội liên văn hóa dựa trên sự hiểu biết về sự hiệp nhất là “sự hiệp nhất trong đa dạng”, cho phép sự đa dạng của các nền văn hóa trên thế giới có được một vị trí trong Giáo hội như chính chúng vốn có. Một Giáo hội liên văn hóa là một phần trong tầm nhìn của Vatican II, nơi mà theo nhà thần học lỗi lạc Karl Rahner, lần đầu tiên trong lịch sử, Giáo hội được trải nghiệm như một “Giáo hội thế giới” và “không còn là Giáo hội của phương Tây nữa.”[23]

Trùng hợp thay, Đức Thánh Cha Phanxicô dường như cũng có cùng tầm nhìn về Giáo hội. Trong buổi tiếp kiến chung, được tổ chức vào ngày 9 tháng 10 năm 2013, trong bối cảnh bài giáo lý về “Giáo hội là Công giáo”, ngài nói: “Tất cả chúng ta không giống nhau và tất cả chúng ta không nên giống nhau. Tất cả chúng ta đều đa dạng, khác nhau. Mỗi người đều có những phẩm chất riêng, và đây là điều tuyệt vời về Giáo hội. Mỗi người đóng góp những gì Chúa ban cho họ để làm phong phú thêm cho tất cả những người khác”. Ngài nói thêm: “Sự đồng nhất giết chết cuộc sống. Và khi chúng ta cố gắng áp đặt sự đồng nhất này lên mọi người, chúng ta đã giết chết những ân sủng của Chúa Thánh Thần.” Ngài lặp lại ý tưởng tương tự trong Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin Mừng): “... bất cứ khi nào chúng ta cố gắng tạo ra sự hiệp nhất trên cơ sở những tính toán của con người, cuối cùng chúng ta áp đặt một sự đồng nhất nguyên khối. Điều đó không giúp ích gì cho sứ vụ của Giáo hội” (EG 131).

Một Giáo hội liên văn hóa thực sự là một Giáo hội được đặc trưng bởi ba điều, đó là (1) Giáo hội là ngôi nhà của những người thuộc các nền văn hóa khác nhau, (2) Giáo hội là công cụ đối thoại liên văn hóa trong xã hội loài người, và (3) Giáo hội là một dấu hiệu về sự bao trùm tất cả của Nước Thiên Chúa.

Một Giáo hội liên văn hóa sẽ được những người xa lạ và người nước ngoài nhìn nhận không chỉ là một Giáo hội khoan dung hơn mà còn là một Giáo hội chào đón hơn. Và để Giáo hội được chào đón nhiều hơn, có ba yếu tố cần thiết,[24] đó là, một Giáo hội thúc đẩy việc nhìn nhận các nền văn hóa khác (nghĩa là cho phép nền văn hóa của những người di cư, những người xa lạ hoặc người nước ngoài được hiện diện trong cộng đồng), khuyến khích tôn trọng sự khác biệt văn hóa (nghĩa là tránh mọi nỗ lực nhằm san bằng sự khác biệt văn hóa bằng cách gộp các nền văn hóa thiểu số vào nền văn hóa thống trị) và thúc đẩy sự tương tác lành mạnh giữa các nền văn hóa (nghĩa là tìm cách tạo ra một bầu không khí trong đó mỗi nền văn hóa cho phép bản thân được biến đổi hoặc làm phong phú thêm bởi người kia). Với những đặc điểm này, một Giáo hội liên văn hóa sẽ là một cộng đồng nơi người dân thuộc các nền văn hóa khác nhau sẽ cảm thấy mình thuộc về.

Tuy nhiên, một Giáo hội thực sự liên văn hóa không thể tự giới hạn mình vào việc chỉ chăm sóc những người thuộc cộng đồng của mình, tức là những người xa lạ và người nước ngoài là Kitô hữu hoặc Công giáo. Một Giáo hội thực sự liên văn hóa cũng phải nhìn xa hơn chính mình và phục vụ những người di cư, những người tị nạn và những người di tản không phải là Kitô giáo bằng cách trở thành một công cụ đối thoại liên văn hóa trong một xã hội rộng lớn hơn. Nó phải hướng tới việc tạo ra trong cộng đồng con người rộng lớn hơn những điều kiện để có thể thực hiện được ba yếu tố nêu trên, tức là sự công nhận các nền văn hóa khác, tôn trọng sự khác biệt văn hóasự tương tác lành mạnh giữa các nền văn hóa. Điều này có nghĩa là thúc đẩy cuộc đối thoại đích thực giữa những người thuộc các nền văn hóa khác nhau.

Một Giáo hội cổ vũ tính liên văn hóa đích thực bên trong mình (“ad intra”) và thúc đẩy cuộc đối thoại liên văn hóa bên ngoài mình (“ad extra”) sẽ là một dấu hiệu thực sự đáng tin cậy về tính toàn diện của Vương quốc Thiên Chúa. Nó sẽ là bằng chứng cho tính phổ quát đích thực và sự cởi mở đối với sự đa dạng của Vương quốc Thiên Chúa. Một Giáo hội liên văn hóa sẽ là một lời loan báo rằng Nước Trời bao gồm tất cả mọi người và không loại trừ ai, và trong đó không có người lạ hay người nước ngoài mà chỉ có anh chị em. Nó sẽ là hình ảnh của sự quy tụ toàn cầu vào thời kỳ sau hết “tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.” (Kh 7,9).

Thời gian của chúng ta là thời gian thú vị cho sứ vụ. Và nó càng trở nên thú vị hơn bởi sự lãnh đạo đầy lôi cuốn của Đức Thánh Cha Phanxicô với tư cách là Mục tử hoàn vũ của Giáo hội. Ngài nói, ngài mơ về một Giáo hội truyền giáo và hình dung Giáo hội không phải là một tổ chức quan liêu mà là một “bệnh viện dã chiến” sau một trận chiến, nơi những vết thương của nhân loại có thể được băng bó, điều trị và chữa lành.[25]

Cuộc gặp gỡ của chúng ta với Người Xa Lạ, người Khác- mà theo Đức Phanxicô gọi là linh đạo gặp gỡ ‘Spirituality of encounter’ với người khác biệt về văn hóa với chúng ta, tiết lộ cho chúng ta “Khuôn Mặt Khác” của Thiên Chúa – khuôn mặt xa lạ, huyền bí của Thiên Chúa. Điều mà thế giới ngày nay cần là nhìn thấy, không phải khuôn mặt quen thuộc và gần gũi của Thiên Chúa, hình ảnh Thiên Chúa thường được tạo ra theo hình ảnh của chúng ta, mà là khuôn mặt xa lạ và huyền bí của Thiên Chúa hình ảnh Thiên Chúa thường được tạo ra theo hình ảnh của chúng ta, nhưng khuôn mặt xa lạ và huyền bí của Thiên Chúa, hình ảnh của Thiên Chúa vượt quá ý nghĩ và trí tưởng tượng của chúng ta. Không phải khuôn mặt của Thiên Chúa khiến chúng ta tự mãn và thoải mái, mà là khuôn mặt của Thiên Chúa thách thức và làm chúng ta bối rối.

Và như vậy, điều chúng ta cần ngày nay không phải là một việc truyền giáo có thể giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa bằng ngôn ngữ triết học lan man, mà là một việc truyền giáo có thể dẫn người ta vào chính mầu nhiệm Thiên Chúa qua ngôn ngữ của các dấu hiệu và biểu tượng. Người ta không chỉ cần hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, mà quan trọng hơn nữa là gặp gỡ Thiên Chúa huyền nhiệm. Nói cách khác, điều cần thiết trong sứ vụ truyền giáo ngày nay là một cách tiếp cận và ngôn ngữ “thần bí”. Trong số 166 của Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nói chính xác về “sự khai tâm thần bí” hay “sự canh tân thần bí” trong việc dạy giáo lý. Ngài nói rằng “nhiều cẩm nang và chương trình vẫn chưa tính đến đầy đủ nhu cầu đổi mới thần bí, một cuộc đổi mới sẽ mang những hình thức rất khác nhau dựa trên sự phân định của mỗi cộng đồng giáo dục”. Ngài nói thêm: “Việc dạy giáo lý đòi hỏi một môi trường thích hợp và một cách trình bày hấp dẫn”.

Và đó là một sứ vụ bao gồm tất cả mọi người trong Giáo Hội. Đức Phanxico nói rằng nền tảng của sứ vụ truyền giáo là Niềm Vui Tin Mừng, một niềm vui là niềm vui truyền giáo, và một niềm vui không loại trừ ai, vì đó là niềm vui cho tất cả mọi người (x. EG 20-23). Vì vậy, Đức Thánh Cha nói, “tất cả chúng ta được yêu cầu vâng theo lời mời gọi của Chúa để ra đi từ vùng an toàn của mình để đến với tất cả các ‘vùng ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (EG 20).

“Không bao giờ có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có sự tác động của Chúa Thánh Thần. Thánh Thần đã xuống trên Chúa Giêsu Nazarét lúc Ngài chịu phép rửa. Tiếng Chúa Cha phán khi ấy “Con là Con yêu dấu, là Người Con Ta sủng ái” (Mt 3,17) biểu lộ sự tuyển chọn và sứ vụ của Ngài.”[26]

Công Đồng Vatican II như là một ‘New Pentecost’- Một Cuộc Hiện Xuống mới và Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ XVI mới đây đã kêu gọi mọi tầng lớp trong Giáo Hội cùng ‘Hiệp Thông, Tham Gia và Sứ Vụ’ cũng tiếp lửa thêm cho công cuộc Loan Báo Tin Mừng. Vậy những thừa tác viên Tin Mừng ‘đừng dập tắt Thần Khí’ (x. 1 Tx 5,19 ) nhưng hãy để Thần Khí dẫn dắt chúng ta ‘ra khỏi trại mà đến với Người, cam lòng gánh vác nỗi khổ nhục Người đã chịu’ (Dt 13,13) khi chúng ta biết mở lòng chia sẻ và đón nhận người khác, những người có thể không cùng niềm tin với chúng ta.

Vì vậy, lời mời gọi dành cho chúng ta hãy tham gia Missio Dei- Sứ vụ của Thiên Chúa, bằng cách dấn thân vào một cuộc phiêu lưu của niềm vui- Niềm vui Tin Mừng.

Philippines, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 2024,

Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD



[1]Vatican II, Ad gentes 2, Roma, 1965.

[2]ĐGH Phanxico, Evangelii Gaudium 1, Roma 2015. 

[3]Chẳng hạn, Michael Amaladoss, “New Images of Mission”, Promotio Justitiae 94 (Jesuit Social Justice  Secretariat), 2007/1, các số. 21-22; “New Faces of Mission”, UISG Bulletin 99 (1995), Rome. 

[4]Chẳng hạn, Edmund Chia, “Mission, Dialogue and Missionary Congregations”, in SEDOS Bulletin 34,  No. 2 (February 2002), các trang 52-53. 

[5]Xc. David Bosch, Transforming Mission, pp. 389-393. Là một khái niệm truyền giáo hiện đại, Missio Dei có thể bắt nguồn từ tác phẩm của Karl Barth vào những năm 1930. Nó được giới thiệu lần đầu tiên tại Hội nghị Truyền giáo Quốc tế (IMC) tại Wellingen năm 1952 bởi K. Hartenstein, giám đốc Basel Mission.  Tuy nhiên, ý tưởng Missio Dei, đã không nổi bật trong tư duy truyền giáo học cho đến những năm 1990, có lẽ vì tính thụ động nhất định mà nó đã trở nên gắn liền với nó trong một số vòng kết nối. – nghĩa là, nếu truyền giáo là công việc của Thiên Chúa thì có lẽ tốt nhất là để việc đó cho Thiên Chúa, không có sự can thiệp của chúng ta. Thật vậy, một số người nhìn thấy ở đó một xu hướng loại trừ sự tham gia của Giáo hội vào việc truyền giáo. Tuy nhiên, vào những năm 1990, nó ngày càng được xem là một biểu hiện quan trọng của linh đạo truyền giáo - nghĩa là những người tham gia truyền giáo phải phù hợp với sứ vụ và thừa tác vụ của Chúa Giêsu. Xc. Theo Sundermeier, “Theology of Mission” in Dictionary of  Mission: Theology, History, Perspectives (ed. by Karl Muller, et al., Maryknoll: Orbis Books, 1998), p. 434.

[6]Adrian Hastings, “Mission” in Encyclopedia of Theology: A Concise Sacramentum Mundi, NY:  Crossroad, 1975, pp. 967-969. Xc. Stephen Bevans and Roger Schroeder, Constants in Context: A  Theology of Mission for Today, NY: Orbis, 2004, p. 8.

 

[7]X. David Bosch, Transforming Mission, trang. 84.

[8]Đây là thời kỳ của sự kết hợp giữa nhà thờ và nhà nước, khi công việc truyền giáo của nhà thờ được thực hiện dưới sự bảo trợ của các vị vua Công giáo của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, ví dụ: the Patronato Real.

[9]Fr. Antonio Pernia, Shifts in Mission Today, DWIMS - Tagaytay, 2024.

[10]Fr. Antonio Pernia, A Preliminary Distinction, DWIMS - Tagaytay, 2024.

[11]Fr. Antonio Pernia, A Preliminary Distinction, DWIMS - Tagaytay, 2024.

[12]Fr. Antonio Pernia, Pope Francis’ Understanding of Mission, DWIMS - Tagaytay, 2024.

 

[13]ĐGH Phanxicô, Kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục, Roma, 17/10/2015

[14]Antonio Pernia, Spirituality of encounter, DWIMS - Tagaytay, 2024. 

[15] X. Nostra Aetate 2, Ad Gentes 11, 12.

[16]X. Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, Thái độ của Giáo hội đối với những người theo các tôn giáo khác, 1984

[17]ĐGH Phaolo VI, Eccesiam Suam 72, Roma, 1963.

[18]ĐGH Gioan Phaolo II, Redemptoris Missio 57, Roma, 1990.  

[19]Xc. Rose Nkechi Uchem, “Shifting Perceptions of Mission”, SEDOS Bulletin 41/11-12, November December 2009, các trang. 261-270.

[20]Xc. IOM (International Organization for Migration), “Global Migration Trends: An Era of International  Migration” IOM Publications, Geneva, (http://www.iom.int). 

[21]Xc. Michael Blume, “Il Fenomeno Globale Dell’immigrazione”, Pontificio Consiglio della Pastorale dei  Migranti e degli Itineranti, Citt del Vaticano, 29 maggio 2000. 

[22]Daniel G. Groody, “The Church on the Move: Mission in an Age of Migration” in Mission Studies 30  (2013), p. 27.

Shifts in Mission / p. 12

 

[23]Xc. Karl Rahner, “Towards a Fundamental Theological Interpretation of Vatican II”, Theological Studies 40 (1979), pp. 716-722. 

[24]Robert Schreiter, “Ministry for a Multicultural Church”, (http://www.sedos.org, Articles in English). 

[25]Bài giảng tại nhà nguyện Thánh Marta, Tôi tớ Nước Trời, truy cập 30/10/2015, xc. http://en.radiovaticana.va/news/2015/02/05/pope_at_santa_marta_servants_of_the_kingdom/112164 7.

[26]ĐGH Phaolo VI, Evengelii Nuntiandi 75, Roma, 1975.

No comments:

Post a Comment