Tết Trung Thu
Theo Âm lịch là ngày rằm
tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết
trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người
lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun
nước... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ,
trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá
cỗ. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức múa lân, múa sư tử để các em vui chơi
thoả thích.
Ở Việt Nam
Ngày tết Trung Thu được diễn tả trong tục:
"Ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Đầu cỗ là
bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu sắc sặc sỡ
xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các
thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp".
- Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành hôn.
- Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”, người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.
Ý nghĩa tết Trung Thu:
Theo phong tục người Việt, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ
bày cỗ cho các con để mừng Trung Thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến
để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng Trung Thu gồm bánh Trung
Thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa. Đây
là dịp để cha mẹ tùy theo khả năng kinh tế gia đình thể hiện tình thương yêu
con cái một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khăng khít thêm.
Cũng trong dịp này người ta mua bánh Trung Thu, trà, rượu
để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các ân nhân
khác.
- Người Trung Hoa thường tổ chức múa rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà... Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình".
- Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.
Ngắm trăng (Thưởng nguyệt):
Tết Trung Thu là tết của trẻ em. Ngay từ đầu tháng, Tết
đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh
dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh Trung Thu, với những đồ chơi của trẻ em
muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.
Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con
giống... sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng
nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử
với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng
có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em
có cuộc vui của trẻ em.
Bày cỗ:
Mâm cỗ Trung Thu thông thường có trọng tâm là con chó[được
làm bằng tép bưởi, được gắn 2 hạt đậu đen làm mắt. Xung quanh có bày thêm hoa
quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm hoặc là loại bánh chay có hình
lợn mẹ với đàn lợn con bép múp míp, hoặc hình cá chép là những hình phổ biến.
Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên vào những dây thép, phơi khô từ 2-3
tuần trước khi đến hôm rằm, và đến đêm Trung Thu, những sợi dây bằng hạt bưởi
được đem ra đốt sáng. Những loại quả, thức ăn đặc trưng của dịp này là chuối và
cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm màu xanh, vài quả na dai...và bưởi là thứ quả
không thể thiếu được. Đến khi trăng lên tới đỉnh đầu chính là giây phút phá cỗ,
mọi người sẽ cùng thưởng thức hương vị của Tết Trung Thu. Phong tục trông trăng
cũng liên quan đến sự tích Chú Cuội trên cung trăng, do một hôm Cuội đi vắng,
cây đa quý bị bật gốc bay lên trời, chú Cuội bèn bám vào rễ cây níu kéo lại
nhưng không được và đã bị bay lên cung trăng với cả cây của mình. Nhìn lên mặt
trăng, có thể thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc,
và trẻ em tin rằng, đó là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.
Hát trống quân:
Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống
quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây
gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng
"thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo
vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra.
Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì
những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm
trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui
chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ
lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có
từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa không có
phong tục này.
Múa sư tử (múa lân):
Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn
gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người
Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con
Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này.
Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám múa Lân thường gồm có một
người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo
nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất
theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc,
có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi
theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng
tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.
Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn,
ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên
có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ
em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa
màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm
tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu
màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v.
Nguồn :
http://www.luhanhviet.com/?lang=0&mn1=1&mn2=1&id=438